Friday, October 28, 2011

Chương 10 / Xuất ngoại tị nạn tại Hoa Kỳ

- mười -

Xuất ngoại tị nạn tại Hoa Kỳ

******
Hai chữ HO.
Trước khi theo dõi hệ thống thủ tục mà chúng tôi phải hoàn tất, mời quí vị quí bạn xem qua nguyên văn bức thư của cựu Đại Tướng John  W. Vessey, đặc phái viên của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, gởi anh Hội Trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Minnesota khi ông được mời tham dự đại hội H.O. tại địa phương ông cư ngụ. Trong thư, ông giải thích rõ về nguồn gốc hai chữ H.O.
Cũng qua thư của cựu Đại Tướng Vessey, chúng ta càng hiểu sâu thêm về điều mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam gọi là khoan hồng nhân đạo đối với quân nhân, viên chức, cán bộ, Việt Nam Cộng Hòa cũ ra khỏi các trại tập trung từ năm 1987. Thật ra, chúng tôi ra khỏi trại tập trung là do sự trao đổi giữa Hoa Kỳ với Việt Nam cộng sản. Tuy trong thư cựu Đại Tướng Vessey không nói trao đổi như thế nào, nhưng rõ ràng là từ đó, cộng sản Việt Nam từng bước đến gần, và cuối cùng là bắt tay được với Hoa Kỳ,  và từng bước hội nhập vào cộng đồng thế giới.
General USA (retired)
June 10, 1997
To Mr. Nguyen xuan Huan
President, Association of Former Political Detainees in Minnesota.
1030 University Avenue
ST. Paul, MN 55104.
Dear Mr. Huan.
Because I am unable to attend your important meeting on Saturday, June 21, I ask that this letter be read on my behalf to your members and guests.
It is important to honor all those who served the cause of freedom in Vietnam and Indochina. It is also important to recognize and assist those who suffered under Communist rule for their prior service to the Republic of Vietnam. Political detainees under the Communist regime after 1975 had served their country and their people in the honorable and esteemed tradition of parriotism, putting service to country above self during a long and arduous war.
The sacrifices of all who served and fought in the Vietnam war, Vietnam, Americans, and other Allies, made a difference for the important human ideals of freedom and personal dignity. The world was changed through a collective effort. The spread of Communist in Asia was harted by the sacrifices in Vietnam, Laos, and Cambodia, and with the help of other nations of Southeast Asia. All who participated in that effort can be proud of their contributions.
When President Reagan call me back from military retirement in 1987 to be his Presidential Emissary to Hanoi, one of the highest priority tasked he assigned me was to seek  the release of our former South Vietnamese comrades who had been detained in the, so-called, "reeducation camps". I was authorized to assure the Hanoi government that the United States would accept and welcome those detainees and their families in this country.
Because, at the time of the original negotiations, there was no hope of any immediate political resolution between the two nations, all actions taken  in furtherance of the agreements reached were termed "Humannitarian Operations". Consequently, the term H.O. has been used within the Vietnamese-American community to refer to former political detainees who are now resident in the United States.
To me, the term H.O. is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are the among the true heroes of our time.
My very best wishes to all attending your event.
Sincerely yours.
John W. Vessey.
Người dịch bản văn nói trên là Ông/Bà Nguyễn T. Ngọc Châu. Trước khi vào bản Việt ngữ, dịch giả viết đôi dòng như sau: “Trong mục đích phổ biến để quí vị chung vui niềm vinh dự của các H.O. vì đây là vinh dự không phải của riêng các anh H.O. tại Minnesota, mà là của tất cả các H.O. định cư tại Hoa Kỳ”.
 “Vinh danh những người đã phụng sự cho chính nghĩa tự do ở Việt Nam và Đông Dương là một điều quan trọng. Việc công nhận và trợ giúp những người đã bị chế độ cộng sản ngược đãi vì đã phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa, cũng không kém phần quan trọng. Những tù nhân chính trị dưới chế độ cộng sản sau năm 1975, là những người đã từng phục vụ quê hương và đồng bào với truyền thống yêu nước cao cả và đáng kính, đã vì nước quên mình trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt.
“Lòng hi sinh của tất cả những ai đã từng phục vụ và chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam, người Việt, người Mỹ, và những Đồng Minh khác, đã đem lại một ý nghĩa đặc biệt hơn cho lý tưởng của con người về tự do và nhân vị. Thế giới đã thay đổi nhờ một nỗ lực tập thể. Sự bành trướng của cộng sản ở Á Châu đã bị ngăn chận bởi những sự hi sinh  ở Việt Nam, Lào, và Cam Bốt, cùng với sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á. Tất cả những ai đã tham gia vào nỗ lực đó, có thể tự hào về những đóng góp của mình.
“Năm 1987, khi đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà tôi được Tổng Thống giao phó là phải tìm cách giải thoát những cựu chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ trong những cái gọi là “trại cải tạo”. Tôi cũng được quyền bảo đảm với chánh phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẳn sàng chấp nhận và đón tiếp những người tù cải tạo cùng gia đình họ sang Hoa Kỳ”.
“Trong những cuộc thương thuyết sơ khởi, chúng tôi không hi vọng hai bên sẽ có ngay những giải pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước tương lai đều mang danh “chiến dịch nhân đạo” (Humanitarian Operations), gọi tắt Anh ngữ là H.O. Do vậy mà danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt  Mỹ sử dụng, để nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang sinh sống trên đất Hoa Kỳ.  
“Riêng với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và lòng hi sinh. Tất cả những ai được gọi là H.O. đều là những anh hùng thực sự trong thời đại chúng ta”.                      

Thủ tục rời Việt Nam.

Thưa quí vị quí bạn,
Chương trình HO dành cho những cựu tù chính trị trong các trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo với thời gian bị cộng sản giam giữ từ 3 năm trở lên. Trong chương trình này có hai thành phần:
Thứ nhất là cựu tù chính trị không có thân nhân từ Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này được cơ quan IOM ứng trước mọi chi phí để đến Hoa Kỳ, và khi đến Hoa Kỳ được hưởng tiền trợ cấp sinh sống trong thời gian đầu tiên do chánh phủ Hoa Kỳ cấp ngang qua tổ chức thiện nguyện nào đó. Một năm sau mới có thẻ thường trú thường gọi là “thẻ xanh”. Số tiền ứng trước sẽ trả góp hằng tháng cho cơ quan nói trên.
Thứ hai là cựu tù chính trị có thân nhân tại Hoa Kỳ bảo lãnh. Thành phần này do thân nhân trách nhiệm mọi chi phí từ lúc làm thủ tục tại Việt Nam đến khi đặt chân trên đất Mỹ, đồng thời phụ trách nơi ăn chốn ở và mọi chi phí khác. Thẻ thường trú (thẻ xanh) làm ngay tại phi trường đầu tiên khi đến Mỹ, vài tuần sau là nhận được.   
Vợ chồng tôi thuộc thành phần thứ hai do con chúng tôi từ Houston, Hoa Kỳ,  bảo lãnh. Đây là diễn tiến:
- Tháng 03/1988, tại Hoa Kỳ, con chúng tôi nộp mẫu I-130 bảo lãnh. Ba tháng sau nhận được giấy báo chấp nhận hồ sơ. Con tôi gởi giấy này cùng với mẫu I-130 về Sài Gòn, chúng tôi kèm trong hồ sơ xin xuất ngoại mà họ gọi là xuất cảnh nộp cho Quận 10 vào tháng 08/1988. Đầu năm 1989, Công An Quận 10 cho biết hồ sơ đã chuyển lên Sở Công An.
- Tháng 11/1989, ký hợp đồng với dịch vụ xin passport. Cơ quan dịch vụ này toàn là Công An phụ trách, chúng tôi phải trả cho toán Công An dường như 540.000 đồng (tương đương với 4 chỉ vàng) dưới tên gọi “lệ phí”. Nhiệm vụ của họ ngồi trong cơ quan Công An hay ngồi trong cơ quan có cái tên “Dịch Vụ Xuất Cảnh” ngay trước cổng bên kia đường, không có gì khác nhau, nhưng ngồi trong cơ quan này thì nhận khoản tiền theo từng hồ sơ do chính họ qui định. Vắn tắt là Công An nhận tiền của người có nhu cầu mà theo họ là “danh chánh ngôn thuận” chớ không phải hối lộ, nhưng thật sự là “hối lộ công khai”. Xã hội xã hội chủ nghĩa không giống ai hết quí vị quí bạn à!
- Cuối tháng 02/1990, vợ chồng tôi nhận passport. Cũng hôm ấy, chúng tôi nhận được danh sách phỏng vấn HO5 với số thứ tự 742. Hai tháng sau đó, chúng tôi nhận giấy thông báo của cơ quan ODP tại Bangkok (Thái Lan) cho biết chuẩn bị phỏng vấn.
- Cuối tháng 07/1990, đến Sở Ngoại Vụ để phía Việt Nam sơ vấn. Cách hỏi của họ chẳng khác một hình thức thẩm vấn, vì họ hỏi tôi những câu thế này: Họ tên, cấp (bậc) chức (vụ)? Ở tù mà họ gọi là cải tạo bao lâu? Có vi phạm nội qui trong trại không? Ai bảo lãnh? Sang Mỹ  ở đâu? Tài sản ở Việt Nam có những gì? Ước lượng trị giá bao nhiêu tiền? Sang Mỹ mỗi tháng lãnh bao nhiêu tiền? Có chống lại cộng sản mà họ gọi là “cách mạng” không? Và vân vân … Thật lòng là tôi không hiểu họ sử dụng những thông tin đó vào việc gì, vì gộp những câu đó lại không nói lên được mục đích gì rõ rệt cả, ngoại trừ họ hỏi vòng vo nhưng thật ra họ muốn biết tôi để lại tài sản gì khi tôi rời Việt Nam? Trấn lột là một thủ đoạn gian manh của cộng sản mà.
- Giữa tháng 08/1990, vợ chồng tôi cũng đến Sở Ngoại Vụ gặp viên chức Hoa Kỳ. Tôi với viên chức này nói với nhau vài câu chuyện trước khi chánh thức phỏng vấn. Khi biết vợ chồng tôi sẽ định cư tại Houston, anh ta cho biết gia đình anh ta cũng đang ở đó, và nói thêm Houston vừa lớn vừa đẹp so với những thành phố lớn khác của Hoa Kỳ. Vào phỏng vấn, anh ta chỉ hỏi tôi ở tù bao lâu, và bây giờ sẳn sàng để sang Hoa Kỳ chưa? Thế là xong buổi phỏng vấn. Sau đó là khám sức khỏe và chích ngừa.
- Hạ tuần tháng 10/1990, con chúng tôi nộp cho cơ quan IOM 1.834 mỹ kim, chi phí cho hành trình của vợ chồng tôi từ Sài Gòn-Bangkok-Houston (Hoa Kỳ).
- Thượng tuần tháng 02/1991, họ bảo chúng tôi đến ghi chuyến bay mà họ gọi là đăng ký chuyến bay.
- Ngày 28/02/1991, tôi đến công ty dịch vụ tư nhân ký hợp đồng để họ lo mọi thủ tục linh tinh liên quan đến Công An, Quan Thuế, phi trường. Giữa cơ quan dịch vụ với các cơ quan liên hệ có những “qua lại” với nhau nên họ liên lạc hoàn tất suông sẻ, chớ tự mình mà “lội” vào khu rừng thủ tục giấy tờ đó chỉ riêng địa điểm các cơ quan không thôi cũng đủ lạc rồi. Hợp đồng này giá 381.000 đồng, gồm: (1) Gia hạn passport 6.000 đồng. (2) Thị thực xuất ngoại 2.000. (3) Lệ phí phi trường 30.000. (4) Lệ phí quan thuế 10.000. (5) Hồ sơ hợp lệ nhà đất 18.000. (6) Cân hành lý 35.000. (7) Lấy vé phi cơ 80.000. (8) Xe đưa ra phi trường 100.000. Và tiền công dịch vụ 100.000 đồng.  
- Ngày 26/03/1991 chúng tôi mang hành lý đem gởi theo bắt buộc của họ. Tôi phải bày ra tất cả giống hệt như khi tôi chuyển từ trại tập trung Yên Bái xuống trại tập trung Nam Hà vậy. Họ căn cứ vào danh sách tôi đưa, họ xem từng món theo từng số lượng mà lục lọi từng ly từng tí xem tôi có mang theo giấy tờ hay bất cứ thứ gì mà họ cho là nguy hại cho họ không. Do kinh nghiệm qua nhiều lần bị Công An lục soát trong các trại tập trung, nên tôi chuẩn bị tư tưởng như vậy khi mang hành lý đến một nhà kho trong khu vực Tân Sơn Nhất để họ xét. Hơn 1.600 trang giấy viết tay trong 7 tập thu nhỏ với chữ viết thật nhỏ mà tôi lén lút ghi nhận những sự kiện trong các trại tập trung, cùng với những sự kiện trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi tôi ra khỏi trại tập trung, tôi đóng gói cẩn thận và giấu lại nhà bà nhạc tôi. (Sau này trong những lần về thăm bà con xóm làng, Ba tôi đem qua cho tôi tất cả). Do vậy mà tôi rất tỉnh khi họ lục soát toàn bộ những gì vợ chồng tôi mang theo trên đường xa xứ.  
Trong vài ngày còn lại Sài Gòn, chúng tôi đến thăm người bạn ở Tân Định, tình cờ gặp anh Lê Hữu Tiền (Đại Tá Truyền Tin). Anh Tiền cũng là bạn tù với tôi, anh kể tôi nghe về chuyện cái nhà mà gia đình anh đang ở, và đang lo vấn đề “hợp lệ nhà đất” để rời Sài Gòn nhưng tôi không hỏi anh đi trong đợt HO mấy. Do môi giới của Sở Quản Lý Nhà Đất, anh đến gặp tên Giám Đốc, tên này bảo anh gặp Phó Giám Đốc. Chỉ vài ba câu chuyện, tên Phó Giám Đốc hướng dẫn như một phán quyết:
“Cái nhà của Anh trị giá 60 lượng vàng mà họ gọi là 60 cây. Anh có hai người anh ở nước ngoài cho nên anh chia làm 3 phần. Anh phải nộp 40 lượng vàng của hai người ở nước ngoài cho nhà nước giữ. Còn 20 lượng về phần anh, anh phải nộp lệ phí 20% cho Sở Quản Lý Nhà Đất”.
Sau khi nghe “phán xong vụ chia chác” mà họ tính toán rất “bài bản”, từ 60 lượng vàng chỉ còn 16 lượng nên anh Tiền và gia đình quyết định không bán nhà, và mang theo giấy tờ khi rời Sài Gòn, còn cái nhà chúng làm gì thì làm.
Đến lượt nhà tôi. Do chỉ dẫn từ con của bạn chúng tôi mà một tên cộng sản nghe nói là chánh văn phòng của cái gọi là Ủy Ban Nhân Dân thành phố, sẽ chiếm ngụ nhà tôi khi chúng tôi rời Sài Gòn. Cũng qua con của người bạn, hắn ngỏ ý muốn dùng xe của hắn đưa vợ chồng tôi ra phi trường. Cùng lúc hắn nói muốn đưa vợ chồng tôi 5 lượng vàng với điều kiện chúng tôi đưa giấy chủ quyền nhà cho hắn. Nói cách khác, hắn muốn mua giấy chủ quyền nhà chúng tôi với giá 5 lượng vàng. Chúng tôi trả lời không cần xe của hắn, cũng không cần 5 lượng vàng của hắn, và dứt khoát không có việc mua bán gì cả. Thật ra, hồ sơ chủ quyền ngôi nhà này và chủ quyền mẫu vườn ở Vĩnh Long, em trai tôi đã đem sang Hoa Kỳ đầu năm 1990 nhân chuyến về thăm Ba tôi với bà con xóm làng, trước khi Ba tôi sang định cư Hoa Kỳ vào những tháng cuối năm 1990 do các em tôi bảo lãnh.
Quí vị quí bạn hình dung bây giờ là chiều 28 tháng 03 năm 1991, các em tôi từ Vĩnh Long lên chật nhà. Cùng lúc tên sắp chiếm nhà tôi dẫn 4 thanh niên đến. Hắn nói:
“Vì sợ sáng mai anh chị đi sớm có người vào tranh đoạt hoặc đập phá, xin anh cho mấy người này ngủ đây đêm nay”.
“Tôi đồng ý, nhưng các anh chỉ được ngủ ở tầng trệt này. Tôi không muốn thấy bất cứ anh nào lên lầu. Chúng tôi cần được tự do trong ngày cuối cùng trước khi chúng tôi rời Việt Nam ”.
Hắn xoay qua mấy người của hắn:
“Các đồng chí ngủ ở đây, đừng quấy rầy anh chị và mọi người trong nhà. Sáng mai tôi đến”.
Kể ra hắn có lý khi hắn sợ có người vào tranh đoạt lúc vợ chồng tôi ra khỏi nhà, vì trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người cộng sản nào cũng có sẳn những cách trấn lột cướp đoạt tài sản của người khác làm tài sản của mình. Cùng là cộng sản, nên hắn đề phòng là phải.  
Ngày 29 tháng 03 năm 1991, vợ chồng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, với đông đảo các em và bà con bè bạn tiễn đưa.
Ngay trước khi phi cơ lăn bánh ra phi đạo, tôi quá đổi ngạc nhiên khi thấy hai hành khách không còn ghế ngồi và cô tiếp viên phi hành dẫn họ đến ngồi bệt trên lối đi ở cuối hàng ghế sau cùng. Hỏi ra mới biết là trên các chuyến bay của hàng không Việt Nam cộng sản, thường khi có số hành khách nhiều hơn số ghế. Nhìn cảnh này giống như hành khách đi xe đò vậy quí vị quí bạn à!
Đến phi trường dường như là Don Muang (Bangkok), lên xe bus về tạm trú trong khu trại nghe nói trước kia là nhà tù.
Những ngày ở đây, chúng tôi được hướng dẫn về cuộc sống trên đất Mỹ. Về thực đơn hằng ngày của chúng tôi, ngoài cơm ra thì trứng luộc là món ăn chánh. Sáng trứng luộc chiều trứng luộc. Nếu nhìn theo góc độ chính trị, cái trứng luộc trong những ngày tạm trú nơi đây rất có ý nghĩa, trong khi cái trứng luộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đơn thuần chỉ là kinh tế, mà là kinh tế nghèo nàn kiệt quệ! Cũng những ngày ở đây, người Thái Lan đến gạ mua vàng và trả bằng mỹ kim. Anh em chúng tôi bán từng chỉ vàng, dùng tiền đó mua trái cây và vài thức ăn khác do người Thái mang đến bán bên ngoài trại. Phải công nhận nhiều loại trái cây ở đây ngon hơn Việt Nam mình, nhất là nhản.   
Chúng tôi rời Bangkok bằng phi cơ của Japan Airlines vào nửa đêm ngày 04 rạng 5/4/1991. Tại Tokyo, chúng tôi chuyển sang phi cơ của Northwest Airlines đến Seattle (Washington State). Chúng tôi lại chuyển phi cơ cũng của NA và đến Houston lúc 6 giờ chiều ngày 5 tháng 4 năm 1991, được con chúng tôi, em chúng tôi, và bạn chúng tôi đón.   

No comments: