Friday, October 28, 2011

Chương 5 / Trại tập trung Tam Hiệp.

- năm -

Trại tập trung Tam Hiệp.

******

Tổ chức và sinh hoạt.

Ba tiếng đồng hồ sau đó, niềm hi vọng của chúng tôi tắt lịm khi đoàn xe bít bùng vào cổng trại Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa. Trại này nguyên là “trại tù binh cộng sản” nên không xa lạ với những bạn có thời gian phục vụ ở Biên Hòa và vùng lân cận.
Sân trại dưới ánh sáng vàng vọt của những bóng đèn gắn tạm, cho thấy hai cái bàn với mấy cái ghế, và một toán cộng sản đi qua đi lại chỉ chỗ cho xe đậu. Tắt máy. Tại mỗi chiếc hầu như có tiếng thúc giục xuống xe và đứng tại chỗ. Từ giữa sân, một giọng ồm ồm:
“Các anh tập trung trước cái bàn dài này để nghe biên chế. Khẩn trương lên”.
Những ngày đầu ở trại Long Giao, anh em chúng tôi chẳng ai hiểu nghĩa của chữ “khẩn trương nên đôi lần bị họ mắng. Dần dần mới hiểu được, hóa ra chữ khẩn trương có nghĩa như chữ nhanh lên hay lẹ lên của người dân Việt Nam Cộng Hòa vậy. Còn chữ “biên chế” có nghĩa như chữ tổ chức của mình. Bởi vì chữ của cộng sản sử dụng không cùng nghĩa với chữ thông dụng trong văn hoá Việt Nam, đã biết vậy cho nên chẳng phải thắc mắc làm chi cho mệt trí.
Chỗ ở. Họ đọc danh sách biên chế vào từng “Khối”. Tất cả cấp Đại Tá vào 4 Khối, con số diễn biến từ 92 đến 94 người trong mỗi Khối, và mỗi Khối ở trong hai dãy nhà. Tôi ở trong Khối 2, dọn vào dãy số 3 và 4. Đồ đạc lỉnh kỉnh tạm thời để ngổn ngang, miễn có chỗ nằm ngủ rồi sáng mai dọn dẹp. Lúc ấy là hơn 1 giờ sáng.  
Toàn bộ trại này là loại nhà sườn sắt, lợp tôn, nền tráng xi-măng, vách cũng bằng tôn cách mặt đất khoảng 3 tấc (0.3 mét) cho gió lùa đỡ nóng. Vách nhà này với vách nhà kia cách nhau khoảng 5 thước, giữa đầu hồi của hai dãy cũng một khoảng cách tương tự. Chung quanh mỗi dãy đều có mương thoát nước rất rộng, và khá sâu nhưng khô queo. Khu vực này toàn đất cát nên trời mưa vẫn sạch.
Cầu tiêu là cái mương dài đủ cho khoảng 20 người ngồi cùng lúc. Cầu tiêu không mái che, cũng không có vách bao bọc chung quanh, chỉ có mấy tấm ván mảnh mai bắt ngang cái mương đủ để ngồi làm cái việc “sản xuất phân bón”, nên khi có lượn gió hây hây đủ làm mát rượi khắp người! Khi “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” được thải ra từ những con người không phải công dân xã hội chủ nghĩa đến mức đầy cái mương cầu tiêu, thì trời đất ơi, ruồi nhặng xanh lè, con nào con nấy bằng ngón tay út vì chúng nó ăn thả giàn. No bụng là bay nhỡn nhơ khắp các dãy nhà, và đậu vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Khốn nỗi cái mương cầu tiêu đầy ắp phân bón xã hội chủ nghĩa chỉ cách dãy nhà số 3 -nơi tôi ở- khoảng 15 thước, chỉ cần chút gió thoảng là cái “mùi xã hội chủ nghĩa ưu việt” đến kinh tởm đó tràn vào nhà này và những nhà kế cận.
Những ngày đầu, anh em chúng tôi tưởng chừng không thể sống nỗi với cái không khí khiếp đảm này, nhưng rồi cũng phải quen để mà sống. Chẳng những không thể trốn cái mùi ấy, mà nhiều bạn phải ra ngồi dưới bóng mát của cây trứng cá nhỏ nhoi ở khoảng cách giữa dãy nhà số 3 với cái mương cầu tiêu, để tránh “cái nóng nung người nóng  nóng ghê” của vách nhà và mái nhà lợp tôn. Cũng có bạn chấp nhận cái nóng gay gắt để được nằm trong nhà vì lúc ấy mới nằm thong thả được, bởi chỗ nằm của mỗi người được phân chia một cõi không gian bé tí vỏn vẹn 6 tấc (0.6 thước) bề ngang.
Nấu ăn. Một gian nhà bếp có 6 miệng lò cở chảo đụn (loại chảo có sức chứa 60 lít nước) dành cho 4 Khối nấu ăn. Mỗi Khối tổ chức thành 6 Tổ nhà bếp để tự lo cho Khối mình. Nhà thầu cung cấp cây cao su già nguyên khúc, và rau với cá tươi. Toàn là “cá ngừ”, một loại cá biển có giá trị thấp nhất trong các họ nhà cá. Tôi phụ trách một Tổ trong 6 Tổ nấu bếp của Khối 2.
Tổ chức nhóm. Mỗi Tổ chia ra như sau: Nhóm nấu bếp thì tôi nấu cơm. Anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá bộ binh) chụm củi. Anh Trần Phước Dũ (Đại Tá Hải Quân) nấu thức ăn. Nhóm làm rau gồm 6 anh mà hầu hết là Bác Sĩ Quân Y. Nhóm sau cùng là chẻ củi cao su và cung cấp nước. Ở trại này, nước dùng thong thả chớ không khốn đốn như ở trại Long Giao.
Phân công. (1) Nhóm nấu bếp. Từ mờ sáng, anh em chúng tôi xuống bếp nhóm lửa nấu hai chảo nước sôi (120 lít nước). Khiêng lên hai dãy nhà số 3 và 4 để các bạn có nước chín sử dụng trong ngày. Sáng sớm có nước sôi pha trà, pha cà phê, thậm chí ăn mì gói nữa. (2) Nhóm làm rau. Ra ngoài cổng lãnh gạo, rau, và cá ngừ ở Ban Chỉ Huy trại. Nói là ra ngoài cổng chớ thật sự chỉ cách ba lớp hàng rào kẽm gai liền nhau thôi. Sau khi giao cá cho tôi, nhóm này rửa rau xắc rau nếu cần. Rau, thường là trái su le hay bắp cải. Làm xong rau thì giao cho anh Dũ. (3) Nhóm chẻ củi. Củi thì chẻ lúc nào cũng được. Lúc làm bếp thì lo cung cấp nước theo nhu cầu của Nhóm Làm Rau và Nhóm Nấu Bếp. Công việc đơn giản so với hai Nhóm kia.
Diễn tiến. Trong khi tôi làm cá mà thông thường là 5 hay 6 con cá ngừ lớn bằng cổ chân, anh Dũ cho 60 lít nước vào chảo chuẩn bị nấu canh. Thường khi tôi làm cá xong, cũng là lúc anh Điệp đâm xong tô muối trộn với một bó hành lá xắc nhỏ và khoảng 100 trái ớt (do chúng tôi trồng) để tôi ướp cá. Phải dùng nhiều hành nhiều ớt để giảm bớt mùi tanh của cá ngừ. Ướp xong để đó, cho rau vào chảo nước đang sôi, cùng lúc cho vào tô muối hột với 100 gram bột ngọt. Thế là chúng tôi có chảo canh, múc ra hai cái chậu thau lớn để sang một bên. Xong món canh, rửa chảo và cho nước vào chảo chuẩn bị nấu cơm. Cứ một thùng gạo là một thùng rưỡi nước, theo tỷ lệ đó mà lường gạo với nước. Trước khi cho gạo vào, tôi nhắc:
“Cho lửa tối đa nghe anh Điệp”. 
Khi cơm sôi: “Anh Điệp ơi! Bớt lửa 50%”
Lúc ấy anh Điệp kéo lửa ra, anh Dũ dùng lửa đó kho cá. Khi chảo cơm đủ hơi, anh Điệp kéo hết lửa ra ngoài và cứ thế mà chờ cơm chín, cá chín.
Chia thức ăn. Cơm chia ra hai phần, cá cũng vậy, và toán trực của Khối xuống bếp khiêng về phân chia cho 92 (hay 94) khẩu phần. Chia cơm, canh, cá kho, cũng là vấn  đề đôi khi rắc rối chớ hổng phải đơn giản đâu, vì lẽ lúc nào cũng không đủ ăn, nên lỡ tay chia không đều là bị bạn bè phản đối lia lịa! Mỗi người có một dụng cụ đựng cơm, một dụng cụ đựng canh, và một dụng cụ đựng thức ăn mặn. Dụng cụ mà tôi nói ở đây có thể là cái tô, cái bình nhựa, cái ca uống nước, cái lon guigoze, hay bất cứ thứ gì đựng được thức ăn nước uống. Thậm chí cũng có thể là một miếng ni-lông nhỏ đựng cơm.
Nghỉ trưa một lúc, Tổ nấu ăn chúng tôi xuống bếp và lặp lại những động tác nấu cơm thôi, vì canh với cá kho còn dành lại. Mồ hôi đẫm người trong ngày nấu ăn, vì lửa từ trong bếp, cộng với cái nắng gay gắt hòa trong sức nóng của mái tôn.
Cả ngày, ngày này sang ngày khác, gần 400 Đại Tá thua trận cứ vòng vòng trong bốn bức rào kẽm gai cao khỏi đầu người. Thỉnh thoảng họ vào điểm danh từng người trong từng nhà một. Trại này do Đoàn 775 canh giữ. Trại gồm nhiều Khu ngăn cách bởi hàng rào kẽm gai. Nhờ lén lút liên lạc qua lại chúng tôi mới biết là mỗi Khu họ giam giữ một cấp, từ Đại Úy đến Đại Tá.  Dần dần chúng tôi hiểu được cách dùng “phiên hiệu” cho các đơn vị của cộng sản. Chẳng hạn như Đoàn này mang số 775 có nghĩa là thành lập hồi tháng 7 năm 1975. Ngược dòng thời gian vào năm 1971 khi tôi phục vụ tại Tổng Cục Tiếp Vận, trong mục đích nghiên cứu tiếp vận của cộng sản mà họ gọi là “hậu cần”, tôi tập trung tài liệu liên quan đến tổ chức và điều hành của Đoàn 559 hậu cần chiến lược đường bộ của cộng sản, phụ trách chuyển quân lính của họ cùng với vũ khí đạn dược men theo dãy Trường Sơn xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa, mới biết đơn vị đó thành lập vào tháng 5 năm 1959. Sự kiện này nối tiếp sự kiện họ gài lại miền Nam hằng chục ngàn đảng viên khi rút quân ra miền Bắc theo qui định trong Hiệp Định Genève tháng 7 năm 1954, đã chứng minh rõ nét là cộng sản nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chuẩn bị chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng ta từ trước khi Hiệp Định Genève có hiệu lực.       
 Mỗi sáng sớm, mọi người khốn khổ với mấy cái loa chỏ vào khu nhà cấp Đại Tá, cứ ra rả những mẫu tin nghe đến nhàm tai, như: đã làm đất vô phân bón lúa, đã làm cỏ sục bùn cho vùng ruộng này được bao nhiêu mẫu, vùng ruộng kia được bao nhiêu mẫu, đạt bao nhiêu phần trăm, ..v..v…  Nhìn từ góc độ kinh tế một quốc gia, những mẫu tin như vậy chẳng những không nói lên được sự phát triển gì cả, mà chỉ cho thấy một đất nước quanh năm suốt tháng không có sinh hoạt nào khác hơn là đồng ruộng nương rẫy. Nhưng nghĩ cho cùng, những tin tức đó còn đỡ khổ hơn là nghe những bài diễn văn của những người mà họ gọi là lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước. Trong cái không khí mà họ thường dùng những nhóm chữ như: “Thừa thắng xông lên. Việt Nam sẽ ngang tầm thế giới. Việt Nam tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nào là ai thắng ai. Nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, ..v..v… “ Ông nào cũng nói cũng phát biểu, và bài phát biểu nào cũng tràng giang đại hải nhưng không rời khỏi những điệp khúc nghe đến ngượng cho họ.
Cho nên có những anh thích chơi bài mạt chược để giết thì giờ trong khi chờ về nhà, đã rất kiên nhẫn cưa củi cao su ra, đẽo nhỏ, mài láng, tạo nên những bộ mạt chược tưởng như mới mua ở chợ miền núi vậy. Từ đó, một sòng mạt chược thường ngày chiếm gốc cây trứng cá ở giữa nhà số 3 với cái đường mương tồn trữ “phân bón ưu việt xã hội chủ nghĩa”. Mùi hôi thúi từ nơi tồn trữ đó không có nghĩa gì với các bạn ấy, mà thật ra có ngồi trong nhà thì mùi đó vẫn ngang nhiên tạt ngang để sang nhà số 4 và những nhà khác nữa! Số sòng mạt chược dừng lại ở con số 3, có nghĩa là đủ thỏa mãn nhu cầu của các anh mộ điệu.
Từ các sòng mạt chược giải trí nhìn sang một sinh hoạt khác đáng khuyến khích. Đó là một số anh lén cắt dây kẽm gai, kiên nhẫn gở bỏ từng cái gai, vỗ cho dây kẽm thẳng ra, cắt từng đoạn ngắn, đánh lại thành từng khoen, rồi nối các khoen lại làm dây kéo nước giếng. Tuy nặng một chút, nhưng có mà sử dụng vẫn hơn. Đến ăn cắp tôn rải rác trong khu trại. Tôn lợp nhà hay làm vách đều là tôn dợn sóng, cho nên phải kiên nhẫn vỗ cho thẳng trước khi gò thành cái thùng kéo nước giếng, hoặc đựng nước sử dụng trong ngày. Đến một sinh hoạt khác nữa cũng  đáng khuyến khích. Đó là có những anh đào rễ và củ hà thủ ô. Không biết vì sao mà loại này thường mọc giữa những lớp hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa các khu trong trại. Hà thủ ô là loại dây leo, ít lá, trông có vẻ lơ thơ tơ liễu buông mành, vậy mà phải đào liên tục từ 3 đến 5 ngày mới đến củ của nó ở độ sâu thường thấy từ 2 đến 3 thước. Sự kiên nhẫn này thường được đền bù cho những anh đào xới một mớ củ và rễ. Sau khi nâng niu cho mát tay, đem củ và rễ hà thủ ô rửa sạch, xắc phơi khô nấu nước uống. Tôi thường được anh bạn trẻ cùng quê Vĩnh Long cho một ly nhỏ, cho vào chút đường, uống rất ngon, và vào giấc ngủ rất nhẹ nhàng. Lính canh cộng sản bắt gặp chui vào hàng rào kẽm gai là họ mắng dữ lắm, nhưng cũng may là họ chưa bắt tại trận anh nào vạch hàng rào chui vào nên chưa ai bị biệt giam.
Tôi nhớ có đọc bài viết về hà thủ ô, vì lâu quá nên trí nhớ còn lưu giữ đôi nét. Là loại cây mọc hoang nhiều nhất ở Việt Nam, Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản. Trong ngành y dược Đông cũng như Tây, đều công nhận hà thủ ô là loại dược thảo thường dùng trong các viện bào chế thuốc. Khi đào lên chưa chế biến gì thì gọi là “hà thủ ô trắng”, nhiều nơi -nhất là Trung Hoa- đem nấu với đậu đen được gọi là “hà thủ ô đỏ”. Khác biệt giữa hai loại hà thủ ô này là “hà thủ ô đỏ” nhiều tính năng trị liệu hơn “hà thủ ô trắng”. Ngay trong anh em chúng tôi, tác dụng cảm nhận được khi sử dụng hà thủ ô là dễ tiêu hóa, dễ ngủ, khỏe khoắn, không bị bón, và nếu uống nhiều giúp cái bao tử dễ chịu hơn.           
Lại một kỳ công nữa của anh Nguyễn Văn Nhu (Đại Tá Quân Y). Khi ở trại tập trung Long Giao, anh đã  phát minh cái vòi tắm bông sen cực nhỏ với vật liệu quá ư đơn giản, chỉ là cái lon đựng sữa bột guigoze do Hòa Lan sản xuất. Tại trại tập trung Tam Hiệp này, anh hoàn thành cây đàn Banjo hoàn toàn sử dụng vật liệu ngay trong trại, gồm: củi cao su, giây điện, và giây điện thoại. Kết quả sản phẩm của anh, tuy âm thanh không thể sánh với cây đàn Banjo thứ thiệt, nhưng vẫn cung cấp những âm thanh mềm mại trong bầu không khí của trại tập trung thường xuyên căng thẳng. Có điều là sáng tạo này hiệu quả không cao như phát minh vòi tắm bông sen kỳ diệu. Sau đó, anh Nhu còn dùng đất sét làm tô làm chén ăn cơm nữa. Phải công nhận, bác sĩ Nhu là người rất kiên nhẫn nhưng lại rất ít nói. Ít nói đến mức mà anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) em vợ của anh, cầm trên tay mấy viên thuốc đến hỏi anh:
“Anh Tư, anh Tư, em bị cảm uống thuốc này được không?”
Xem một lúc, anh Nhu buông thỏng một câu: “Bộ muốn chết hả.”
(Năm 2004, tôi có dịp gặp Bác sĩ Nhu tại Houston, được biết anh và gia đình ở Tampa, Florida. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Tây đã từ trần tại Dallas dường như là năm 2005).

Gói quà đầu tiên. 

Đầu tháng 12/1975, họ cho phép viết thư về gia đình, đồng thời họ cho nhận quà từ gia đình gởi đến nhân lễ Giáng Sinh. Từ vài ngày trước ngày 25 tháng 12, họ đưa xe về Bưu Điện Sài Gòn -nơi tập trung bưu kiện- và chuyên chở về trại trong ngày. Rất nhiều anh em cùng trong Khối 2 nhận được quà từ gia đình gởi đến, trong số đó có tôi. Tháo gói quà ra mà việc trước tiên là xem thư. Ồ! Trong thư có vài tấm ảnh. Sau 6 tháng xa cách, trông thấy vợ con tôi mà xót xa vô cùng! Vợ tôi ốm (gầy) hẳn đi! Các con tôi, tuy sức khỏe không kém nhiều, nhưng nỗi buồn hiện rõ trên nét mặt và cả dáng đứng nữa! Vợ tôi nhắc lại hai lần là tôi phải giữ gìn sức khỏe, vì trong mọi hoàn cảnh vợ con tôi “sống trong cảnh sống của tôi”, và đó là điều mà tôi không được quên! Vợ tôi cho biết Ba Má tôi đã dọn nhà về Nha Mân -quê Nội- mà không cho biết lý do, nhưng điều này tôi đã biết hồi tháng trước (11/1975). Lúc ấy có anh bạn cấp Đại Úy nhờ các bạn bên khu cấp Trung Tá chuyển tiếp qua khu cấp Đại Tá cho tôi biết, nhà Ba Má tôi ở Vĩnh Long đã bị cộng sản tịch thu với lý do là “Ba Má của Đại Tá ngụy”.
Xem thư và ảnh xong tôi mới nâng niu gói bưu phẩm, phải nói cho đúng là gói quà thân thương trên tay. Suy nghĩ như vậy mới cảm nhận được chiều sâu của khối tình cảm từ vợ và các con tôi bàng bạc trên khắp những gói những hộp! Nói nghe có vẻ như nhiều lắm, nhưng thật sự với 5 kí lô nên chỉ vài gói vài hộp với đồ dùng linh tinh là đến trọng lượng giới hạn rồi. Bây giờ mới đến từng món quà. Với cái quần pyjama trên tay, tôi sờ theo đường dây thun vì trong thư vợ tôi có nói cái quần đã luồn thun rồi, ắt phải có cái nghĩa khác hơn là luồn thun. Đúng vậy, lần lượt tôi nhẹ tay kéo ra được 4 tờ giấy bạc loại 10 đồng. Đây là tiền giấy mà cộng sản vừa đổi vừa ăn cướp hồi tháng 9 vừa qua, và 1 đồng mới này họ đánh giá bằng 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa. Số tiền này tôi nhờ anh Nguyễn Trung Chánh (Đại Tá Quân Cụ) trong toán thợ rèn đi làm bên ngoài trại, lén lút gởi nhà thầu cung cấp thực phẩm mua giùm đậu nành và đường tán làm sữa uống.
Đổi tiền ngày 18/9/75 mà tôi nói họ vừa đổi vừa ăn cướp, vì mỗi người dân có bao nhiêu tiền cứ mang đến đổi, nhưng họ chỉ đưa lại tối đa có 200 đồng (bằng 100.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa) dự trù cho mỗi gia đình 5 người chi tiêu trong một tuần lễ, còn bao nhiêu thì họ giữ lại. Sau đó, mỗi khi cần tiền phải làm đơn xin rút tiền và đơn này phải được Phường/Xã cứu xét. Còn họ có chấp thuận hay không, nếu chấp thuận rút và cho rút bao nhiêu tiền là quyền của lãnh đạo cộng sản địa phương. Thử ngược dòng lịch sử, chưa một chế độ nào kể từ thời phong kiến Việt Nam, thời bị phong kiến Trung Hoa cai trị ngót ngàn năm, cho đến thời bị thực dân Pháp cai trị hơn 80 năm, chỉ có thời cộng sản Việt Nam ngày nay mới có cái quyết định ăn cướp cạn như vậy thôi. Hé nhìn ra thế giới, không một nước văn minh nào có cái chính sách đổi tiền như  lãnh đạo cộng sản Việt Nam cả. Tiền của mình mà khi cần mua sắm phải xin phép họ, và chỉ khi được phép mới lấy được tiền của mình mà xài. Trời đất ơi! Ngang ngược và man rợ không thể nào tưởng tượng nỗi! Thế mà họ luôn vễnh mặt rồi vỗ ngực tự xưng là “cách mạng”! Thật là tội nghiệp cho văn chương chữ nghĩa Việt Nam biết bao!
Một lon guigoze đựng đầy thịt heo nạc kho tiêu mà tôi tưởng chừng như còn vương mùi thơm hột tiêu mà vợ tôi vừa cho vào vậy. Ngay sau khi xong ngày nấu bếp, tôi với anh Nguyễn Ngọc Điệp, ngồi lại ăn chiều, và có lẽ trong đời tôi cho đến lúc ấy chưa bao giờ tôi có được bữa ăn ngon đến như vậy quí vị quí bạn à! Bởi vì sự thiếu ăn đã hơn 180 ngày qua, cho nên ngoài cái hương vị thông thường ra, thức ăn còn có cả hương vị từ tình yêu thương của vợ của con tôi nữa.
Đêm đó hầu như tôi không ngủ được bao nhiêu, nhưng không cảm thấy chút mệt mỏi nào. Bởi tôi hồi tưởng lại trong khoảng thời gian gần 3 năm kể từ khi quen biết nhau (năm 1955) đến ngày hôn lễ (1958), chúng tôi trao đổi nhau những quan niệm về cuộc sống lứa đôi. Theo đó, với quan niệm hạnh phúc gia đình, chúng tôi hứa với nhau sẳn sàng chấp nhận những thiệt thòi để giữ được hạnh phúc trong cuộc sống. Với các con thời thơ ấu, sức khỏe và niềm vui của các con là hạnh phúc của chúng tôi. Với các con trong tuổi học hành, xây dựng tương lai cho các con là hạnh phúc của chúng tôi. “Xây dựng tương lai” mà chúng tôi sử dụng ở đây đặt trên nền tảng “Kiến Thức, Đạo Đức, Nghị Lực”. “Kiến thức”, do bẩm sinh, do giáo dục gia đình, giáo dục học đường, và giáo dục xã hội. Kiến Thức được “Đạo Đức” hòa vào sẽ giúp cho những sáng tạo thực hiện được mục đích góp phần đưa xã hội phát triển theo nguyện vọng chung của xã hội. Nhưng nếu kiến thức hòa với đạo đức mà thiếu “Nghị Lực”, e rằng khó vượt qua những khó khăn bất trắc khi thực hiện. Và vân vân…  
Đêm cuối cùng của năm 1975, anh Trần Tín (Đại Tá Quân Nhạc) đã hát bài “Gói Quà Đầu Tiên” do chính anh vừa sáng tác. Lời ca chỉ là mớ ngôn ngữ thường dùng trong cuộc sống chớ không văn chương gì sâu xa, nhưng đã gây xúc động mạnh trong hầu hết anh em ngồi nghe, vì hình tượng gia đình đang ngày đêm hướng về mình trong một tình cảm thân thương vô hạn! Anh vừa hát vừa khóc! Chúng tôi vừa khóc vừa nghe!  
Vào những ngày cuối năm âm lịch tức gần Tết Nguyên Đán đầu năm 1976, họ cho phép gia đình gởi bưu phẩm cho chúng tôi trong trại. Vẫn cách làm như lần trước, họ cho xe về Bưu Điện Sài Gòn nhận và chở lên trại. Hầu hết là bánh mứt, trà, cà phê, nghĩa là những thứ gói ghém “hương vị ngày Xuân”.
Đêm Giao Thừa. Một bàn thờ Tổ Quốc thu nhỏ thiết lập trong một góc được che giấu khá kín đáo. Một nhóm bạn không nhiều lắm vì cần tránh ồn ào dễ bị lính cộng sản rình rập bắt được thì nguy. Ngay lúc bên ngoài có tiếng pháo đầu Xuân, là lúc chúng tôi lần lượt đứng trước bàn thờ cầu nguyện. Trong giờ phút đầu tiên của Năm Mới, tôi nghĩ các bạn tôi cũng như tôi, trong cái chung là giây phút nghiêm trang đó chúng tôi cảm nhận được sự xúc động từ nơi sâu thẳm của tâm hồn đến rớm lệ! Còn cái riêng của mỗi người thể hiện qua nét đăm chiêu nhăn nhúm, cho dẫu là đang bắt tay Chúc Mừng Năm Mới với nhau cũng vậy. Ngày thường trong buồn ngoài vui, nhưng ngày Tết thì buồn cả trong ngoài.
Từng nhóm chúng tôi quây quần bên lon trà, lon cà phê với bánh mứt bày trên “nắp bàn” là mảnh giấy ngay trên chỗ nằm. Câu chuyện chỉ là xoay quanh nội dung Tết buồn và số phận long đong!
Đây có phải là cái Tết trong trại tù không, mặc dù đang ở trong vòng rào chắc chắn của một khu trại, có lính cộng sản canh gác chặt chẻ, mất quyền công dân, ấy vậy mà hầu như đa số anh em chúng tôi chưa công khai nhìn nhận mình là tù! Từ hơn nửa năm qua, lúc nào cộng sản cũng nói chúng tôi là học tập cải tạo, và gọi chúng tôi là những “cải tạo viên”. Phải công nhận sự dối trá với những mỹ từ của cộng sản hay đến mức mình không nhận biết mình là tù, chỉ mới chấp nhận bị nhốt để học tập thôi. Hay là tại mình không biết gì về cộng sản? Có lẽ điểm này dễ được chấp nhận hơn.
Từ trại Long Giao chuyển đến đây đã hơn 3 tháng rồi mà chẳng thấy họ đá động gì đến cái gọi là “học tập cải tạo”, ngoại trừ lo cơm hằng ngày và thỉnh thoảng họ dắt ra ngoài trại làm những công tác lặt vặt. Chỉ có toán cơ  khí  với bảy anh Đại Tá hằng ngày ra ngoài trại làm cuốc xẻng. Do vậy mà những mẫu chuyện được mang ra bàn luận như lúc ở Long Giao. Tóm tắt như thế này:
“Có thể đây là thời gian để họ phân loại chúng mình chăng?”
“Phân loại như thế nào và để làm gì?”
“Thì chỉ phỏng đoán thôi chớ ai mà biết bọn họ tính toán gì đâu”.
“Tôi nghe toán cơ khí nói tụi nó (cộng sản) tính làm sạp gỗ cho mình nằm đó. Nếu sự thể đúng như vậy thì còn lâu tụi mình mới về được”.
“Làm gì có chuyện đó. Có học cái quái gì đâu mà làm sạp với không làm sạp.”
“Mấy hôm trước có anh nào bên Khối 1 nhận được thư nhà cho biết là hồi tụi nó vô Hà Nội năm 1954, đã bắt sĩ quan mình đi học tập lâu nhất là 18 tháng đấy các anh ạ!”
“Giỡn sao cha nội. Thời đó tụi nó mới chiếm một nửa nước, còn bây giờ nó nuốt trọn cả rồi thì tình hình khác chớ. Với lại cái thông cáo chỉ nói có 30 ngày mà, các cha quên mau vậy?”
“Thôi đi bạn. Bây giờ là gần 7 lần 30 ngày rồi mà tụi nó có nói gì với mình đâu. Tôi đếch tin chúng nó nữa.”
“Trong đám tụi mình, có lẽ chỉ có mấy cha chơi mạt chược là khỏe thôi.”
“Khỏe! Thế nào là khỏe.” Bóp đầu bóp trán cả ngày mà khỏe nỗi gì.”
“Tôi nói khỏe, tức là không bận tâm đến chuyện chung, chuyện chính trị, chớ hổng phải khỏe là không mệt.”
“Ừ! Nói vậy còn nghe được.”
Đại để thì rất nhiều hội nghị bàn tròn bàn vuông với những mẫu chuyện trao đổi râm ran như vậy, thế mà bánh mứt, trà, cà phê, thuốc lá sạch trơn, nhưng không anh nào hình thành được một kết luận nào khả dĩ có chỗ mà tin.
Chẳng bao lâu sau Tết Nguyên Đán, tất cả anh em cấp Đại Tá trong 4 Khối ở trong 8 nhà phải dồn lại, nhường chỗ cho anh em cấp Thiếu Tá ở doanh trại của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo cũ từ Hóc Môn chuyển đến. Tụi cộng sản gọi là trại Hóc Môn. Mỗi nhà đang từ 46 hoặc 47 người, nay tăng lên đến 72 người, làm cho “cái cõi không gian bé tí” của mỗi anh em chúng tôi thu hẹp lại còn 42 phân tây (0.42m), tức vừa hơn 2 gang tay! Kích thước “cái body” của tôi còn nằm ngửa và thẳng người được. Khi muốn ngồi dậy, hai tay khoanh trước ngực và từ từ ngóc đầu ngồi dậy. Âu cũng là cách tập các bắp thịt bụng đó mà. Nhưng anh Điệp (Nguyễn Ngọc) mà tôi thường gọi là người bề thế vì “cái body” của anh rộng rãi lắm. Anh rất khổ sở về đêm. Do vậy mà vừa tối là anh ngủ say sưa vì lúc ấy anh có thể nằm thong thả hơn nhiều. Trong đêm, mỗi khi ngồi dậy đã là khó, nhưng khi vừa đứng dậy thì chỗ nằm bị hai anh bạn bên cạnh vô tình choán ngay. Nếu không làm dấu để nhận ra chỗ nằm của mình thì không tài nào nằm đúng chỗ được, mà mỗi lúc như vậy thì y như rằng tiếng càu nhàu cả đầu trên xóm dưới đều nghe. Khi nhận ra chỗ nằm phải từ từ nghiêng người dùng vai lách dần hai bạn bên cạnh, một lúc sau cũng nằm xuống được.

Lại lao động.

Thế rồi anh em chúng tôi được lệnh đi “lao động”. Nói rõ hơn là đi cuốc đất đánh vồng trồng khoai mì mà bọn cộng sản gọi là trồng sắn. Trong tuần, mỗi Khối đi làm vài ngày. Trong những ngày này, cứ mỗi sáng nghe loa phóng thanh ra rả nhắc đi nhắc lại cái gọi là kỹ thuật trồng sắn. Nào là cách đánh vồng, khoét một đường dài bao nhiêu, đoạn hom khoai mì dài 12 phân tây phải quay gốc về hướng đông khi đặt xuống, hai tay phải vung đất lấp lại. Thế nhưng khi ra khu đất sau trại, gần đường xe lửa xuyên Việt, mấy tên lính cộng sản lại hướng dẫn theo cách khác:
“Các anh cứ đánh vồng, dùng cuốc cuốc nhẹ xuống và kéo thành một đường dài, ném đoạn hom xuống đó mà chẳng cần xem hướng đông tây nam bắc gì cả, dùng chân đùa đất lên và đạp xuống cho chặt là xong.”
“Thế tại sao kỹ thuật viên hướng dẫn qui cách qui trình gì đủ thứ vậy bộ đội?” Một anh hỏi.
“Chuyên viên kỹ thuật họ chỉ biết lật sách ra mà đọc, còn tôi làm theo kinh nghiệm. Thôi, các anh làm đi, đừng có đứng đó mà dài dòng.”
Mỗi khi ra trại đi làm, tụi nó dẫn theo cả Tiểu Đội lính với đầy đủ súng đạn và cả máy truyền tin theo canh giữ chúng tôi, cứ như đi đánh trận vậy. Lần thứ hai khi ra làm ở khu đất này, chúng tôi thấy có 3 nhóm dân có vẻ như đang làm rẫy cách chúng tôi khoảng 30 thước. Nhìn kỹ, tôi nói với anh Điệp:
“Anh Điệp ơi! Có vẻ như đó là thân nhân trong số anh em  mình chớ không phải người dân vùng này làm rẫy đâu anh.  Mắt anh Điệp trông không rõ nên không có nhận xét gì, ngoại trừ suy đoán có thể như vậy lắm.”
Phụ nữ và trẻ con ăn mặc tươm tất của dân Sài Gòn cho dẫu Sài Gòn bây giờ dưới quyền của cộng sản. Ba nhóm đó đứng chống cuốc nhiều hơn là cuốc, và luôn nhìn về phía chúng tôi. Thỉnh thoảng mấy đứa trẻ nói lớn lên:
“Đường Trần Hưng Đạo nhé.”
“Đường Lê Văn Duyệt đây.”  
Nhưng không một ai trong chúng tôi dám lên tiếng, vì cả Tiểu Đội lính bao quanh chúng tôi chặt hơn, tụi nó quát tháo đuổi đi khi thấy mấy đứa trẻ mon men đến gần chúng tôi. Rõ ràng là gia đình anh em chúng tôi tìm cách để gặp người thân, nhưng không thể được. Điều đó nói lên tình cảm gia đình sâu nặng biết bao, cho dẫu không còn người chồng người cha làm ra tiền cho gia đình, người vợ thay vào đó gồng gánh cho cuộc sống gia đình, cùng lúc tìm mọi cách để thăm gặp người bạn đời thân thương trong trại “học tập cải tạo”.
Một hành động khác rất có ý nghĩa làm cho bọn canh giữ tức giận nhưng không làm gì được, trong khi anh em chúng tôi rất thích thú và thầm gởi lời cám ơn theo đoàn xe lửa. Đó là mỗi khi đoàn xe lửa chạy ngang, trên nóc các toa xe hầu như đứng đầy các thanh thiếu niên có chuẩn bị gạch đá, liệng tới tấp vào đám lính cộng sản canh giữ chúng tôi. Một vài em còn trịch quần xuống trong khi đoàn xe vẫn ung dung tốc độ từ từ vì chạy chậm lắm. Quả thật hành động trịch quần như vậy xem chừng không lịch sự chút nào, nhưng từ góc độ chính trị thì đáng cho anh em chúng tôi suy nghĩ về cách bày tỏ ý thức chính trị của người dân nhỏ bé Việt Nam Cộng Hòa cũ đối với cộng sản.
Bên khu cấp Trung Tá chuyền tin qua cho biết, đã có anh nhận được thư và tiền khi đi làm gần đường xe lửa do người nhà lén lút thâm nhập vào khu trồng khoai mì.

Phiên tòa rừng rú.

Một buổi chiều khi cuốc đất trở về, trông thấy tụi nó đang kéo dây và gắn hai cái loa khá lớn chỏ vào trại. Đường dây bắt đầu từ khu vực bộ chỉ huy trại, tức Đoàn 775. Sau cơm chiều hôm ấy, anh em chúng tôi có đề tài để đồn đoán, vừa giết thời gian cũng vừa nói lên tâm trạng “wait and see” của những người chỉ được quanh quẩn sau những lớp hàng rào kẽm gai.
“Có thể là lễ ra về đang được chuẩn bị chăng?”
“Không phải đâu bạn ơi! Lễ gì mà kéo dây dài vậy. Hệ thống âm thanh phải thiết trí ngay nơi tổ chức lễ chớ sao kéo vô trại làm chi.”
“Cách tổ chức của họ có chắc gì giống mình đâu mà khẳng định như vậy.”
“Theo tôi, họ bắt mình nghe radio đến mức không ngủ được cho mà coi. Họ hành hạ mình bằng cách làm cho mình điên lên đó.”
“Cũng dám lắm à.”
Và rồi sau đó, họ vào trại gọi các anh Khối Trưởng Khối Phó của các Khối Thiếu Tá, Trung Tá, Đại Tá, ra bộ chỉ huy Đoàn 775 dự thính một phiên tòa quân sự. Hóa ra hai cái loa chỏ vào trại buộc  anh em chúng tôi trong trại phải nghe cái gọi là tòa án quân sự Quân Khu 7 của họ. Chánh thẩm tên Nguyễn Văn Ba, Trung Tá Đoàn Trưởng Đoàn 775. Nói cho dễ hiểu là tên Đoàn Trưởng ngồi xử án. Bị can của phiên tòa là hai sĩ quan trong số anh em chúng tôi bên khu Thiếu Tá. Đó là anh Thiếu Tá Bé và Thiếu Tá Thìn (?). Hai bạn này khi ở trại Hóc Môn đã trốn trại và bị bắt lại. Từ khi chuyển đến đây (trại Tam Hiệp) hai bạn bị nhốt trong hai cái conex. Conex là cái thùng sắt ngang khoảng 2 thước, dài có lẽ hơn bề ngang một chút, và cao cũng khoảng 2 thước. Loại này do Hoa Kỳ viện trợ để quân đội sử dụng tồn trữ tạm khi chuyển hàng, vừa tránh hư hỏng vừa tránh mất mát mà lại gọn gàng khi bốc dỡ nữa. Cái thùng như vậy mà nhốt con người trong đó với sức nóng kinh khủng của miền Nam chỉ hai mùa mưa nắng! Dã man đến thế là cùng!
Theo lời thuật của các anh dự phiên tòa kể lại rằng:
“Cái gọi là phiên tòa quân sự đã căn cứ vào lời tự khai sau đợt học tập chính trị để kết tội hai anh bạn này. Họ gắn sự kiện du học trường Tình Báo Hoa Kỳ ở Okinawa, Nhật Bản với sự trốn trại để tiếp tục hoạt động chống lại họ, thế là họ tuyên án tử hình cả hai anh. Ngay lập tức, hai tên lính cộng sản bước tới bịt mắt,  lôi hai anh ra pháp trường, cột vào hai cột gỗ mới dựng buổi sáng. Và rồi loạt đạn AK 47 nổ vang đã kết thúc sự sống của hai bạn! Đầu ngoẻo về một bên, máu đẫm cả áo quần!. Bọn họ đem chôn xác hai anh ấy ở đâu không ai biết.”
Sáng hôm sau, Khối 2 chúng tôi đi làm nhà ở cạnh “pháp trường”. Tôi đến chỗ cột gỗ, máu dính lem nhem trên thân cột, còn nền đất pha cát đầy những vệt máu đã khô! Anh Trần Văn Lễ đến cạnh tôi, cả hai chúng tôi lặng lẽ chào tiễn biệt hai anh ấy cho dù lời chào muộn màng!
Xem lại vị trí của trại với vị trí pháp trường, có lẽ bọn họ chọn nơi làm pháp trường khi  mọi người thua trận đang theo dõi qua loa phóng thanh, từ lúc nghe tuyên án cho đến lúc hai loạt đạn khô khan xé không gian bay ngang các khu trại, như âm thanh đe dọa anh em chúng tôi thì phải? Tự động rời hội trường trở vào nhà số 2, mọi người hoàn toàn im lặng chừng như mỗi người có nỗi đau riêng của mình! Nhưng qua phiên tòa này, chúng tôi rút ra được kinh nghiệm là những gì mà mình nghe lời họ để rồi khai báo trung thực, đó chính là mình tự kết tội mình.. Khi bắt đầu viết bản tự khai, họ nói rồi nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
“Mấy anh làm gì cách mạng đều biết hết, nhưng cách mạng muốn thấy các anh thành thật khai báo để cách mạng khoan hồng”.
Thưa quí vị quí bạn, nghe theo cộng sản là nguy lắm, thậm chí là chết mất xác đó! Thật ra thì bọn họ không biết gì hết, mà họ chỉ căn cứ vào bản tự khai của hai anh ấy, rồi dẫn đến bản án gần gủi với những bản án trong đấu tố thời cải cách ruộng đất 1953-1956, tại những địa phương dưới sự kiểm soát của lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vậy. Nghĩa là man rợ. Quả thật câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại phiên họp của Quốc Hội lưỡng viện sau trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968, có ý nghĩa vượt thời gian: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Nhờ sự ám ảnh đó đã giúp tôi chọn lọc trong khai báo.

Bị thẩm vấn tại trại Tam Hiêp.

Từ giữa tháng 04/1976, một số các bạn Đại Tá từng phục vụ tại các cơ quan trung ương bị họ gọi đến văn phòng làm việc. Tôi là một trong số đó. Họ dùng chữ “làm việc” nhưng theo tôi thì họ “thẩm vấn”. Hồi tháng 05/1975, khi còn ở Sài Gòn tôi đã bị “làm việc” hai lần. Nhưng theo cách vừa đe vừa vuốt trong từng câu hỏi, thật sự là cuộc thẩm vấn chớ không phải “làm việc” theo cách hiểu rõ nghĩa trắng đen của mình. Họ gọi không liên tục, có khi hai ba ngày liên tiếp, có khi cách vài ngày gọi một lần. Tôi tường thuật một số lần điển hình điều mà họ gọi là làm việc trong khi tôi vẫn khẳng định là bị thẩm vấn.
Ngày đầu tiên bước vào gian phòng nhỏ hẹp ngay bên ngoài vòng rào kẽm gai, hai tên mặc quân phục thẳng thớm nhưng không mũ mão lon lá gì hết nên chẳng biết họ cấp bậc gì. Một tên có vẻ là trưởng đoàn hỏi tôi:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa.”
“Hôm nay chúng tôi bắt đầu làm việc với anh về một số vấn đề.”
“Đây là lần thứ 3 sau ngày 30/4/1975, các anh thẩm vấn tôi. Và tôi sẳn sàng về những điều tôi biết”.
“Có gì đâu mà anh cho là thẩm vấn, chỉ trao đổi với nhau thôi mà.”
“Tôi sẽ cố gắng để hiểu như vậy.”
“Ở căn cứ Long Bình của mấy anh có mấy hầm bí mật? Chính xác là chỗ nào? Và cất giấu những gì trong đó?”
“Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng nhận được câu hỏi tương tự. Và câu trả lời là tôi không biết có hầm hay không có hầm. Đơn giản vì căn cứ Long Bình rộng lớn lắm mà trong đó chỉ có Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận chúng tôi, cùng với một số đơn vị Tiếp Vận đồn trú. Phần rộng lớn còn lại là những cơ sở kinh tế hoạt động. Trong phạm vi các cơ sở của chúng tôi không có hầm bí mật nào cả, ngoại trừ hầm nửa nổi nửa chìm sử dụng tồn trữ hàng cần nhiệt độ thấp như điện trì cho máy truyền tin chẳng hạn. Với lại trong tổ chức Tiếp Vận chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật như trong quân đội các anh.”
“Tôi chắc là trong một căn cứ rộng lớn như vậy phải có hầm bí mật chứ?”
“Tôi quả quyết như vậy, còn anh tin thế nào là tùy anh. Tôi xin nhấn mạnh là các cơ sở của ngành Tiếp Vận chúng tôi chỉ choán một phần đất nhỏ, nên tôi không biết toàn bộ khu vực còn lại.”
Hắn im lặng, chừng như hắn đang tìm hiểu bên trong câu trả lời của tôi có thành thật hay không, hoặc tìm câu  khác “oánh” tiếp chăng? Tôi tiếp:
“Tôi nghĩ, bây giờ các anh đã kiểm soát toàn bộ căn cứ Long Bình của chúng tôi thì việc lục soát tìm kiếm có gì khó khăn đâu.”
“Thôi được, chúng tôi sang vấn đề khác. Về vận tải của các anh như thế nào? Đường bộ lẫn đường thủy?”
“Chúng tôi có 5 Liên Đoàn Vận Tải tại 5 Vùng Tiếp Vận, phụ trách vận chuyển trong phạm vi địa phương. Còn từ trung ương đến các Vùng do Liên Đoàn Vận Tải trung ương trách nhiệm. Trong hệ thống tổ chức mỗi Sư Đoàn Lục Quân có một Đại Đội Vận Tải. Hải Quân có Hải Đội Quân Vận Hạm. Và Không Quân có những Phi Đoàn Vận Tải. Ngoài ra chúng tôi còn có các khế ước thuê mướn các công ty dân sự cung cấp phương tiện vận chuyển đường bộ lẫn đường thủy nữa”.
“Khả năng trọng tải chung của các anh là bao nhiêu, kể cả phương tiện dân sự mà các anh thuê mướn?”
“Tôi không nắm dữ kiện này, nhưng mọi nhu cầu vận chuyển các loại hàng tiếp liệu của quân đội chúng tôi đều được cung ứng”.
“Về vận tải biển của các anh?”
“Ngành Tiếp Vận chúng tôi có khả năng vận chuyển dọc theo duyên hải, nhưng không có khả năng viễn dương.”
“Vậy thì vũ khí khí tài mà Mỹ cho các anh đến bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi. Hoa Kỳ mướn tàu hàng chở đến cung cấp cho chúng tôi.”
“Có trường hợp nào tàu biển cặp các cảng biển miền Trung không?”
“Có”.
“Ngắn gọn quá vậy. Anh cụ thể hơn cho chúng tôi biết?”
“Thí dụ về đạn dược. Chúng tôi thiết lập kế hoạch bổ sung cho các Vùng Tiếp Vận tại các cảng Cam Ranh, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rồi trao cho Hoa Kỳ. Thế là Hoa Kỳ ký khế ước với các công ty vận tải đường biển, và chở hàng giao thẳng các nơi theo yêu cầu của chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi tiết kiệm được thời gian, chi phí, kho tồn trữ trung gian, và an toàn nữa.”
Đấy là buổi thẩm vấn đầu tiên tại trại Tam Hiệp, và là lần thẩm vấn thứ ba kể từ sau ngày 30/04/1975. Trước khi ra cửa, hắn kêu tôi lại đưa tôi mấy tờ giấy ô vuông (cũng gọi là giấy manh) và nói:
“Anh viết lại những gì anh đã nói với chúng tôi sáng nay. Đồng thời tôi muốn anh vẽ những sơ đồ mô tả sự việc rõ hơn. Anh có một tuần để làm việc này.”
“Anh nói mơ hồ quá. Anh cần sơ đồ gì tôi sẽ vẽ nếu tôi biết.”
“Sơ đồ vận chuyển đường thủy. Sơ đồ các Vùng Tiếp Vận của anh ở đâu?”
“Tôi sẽ vẽ. Bây giờ tôi vào trại được chưa?”
“Được. Anh vào đi.”
Tuần sau, lính gác vào gọi tôi. Vẫn địa điểm cũ. Hai tên cộng sản khác đang chụm đầu vào nhau. Tôi gõ cửa. Họ quay nhìn tôi, một trong hai tên hơi gắt giọng:
Anh tên Phạm Bá Hoa phải không?”
“Đúng. Tôi đây.” Tôi cũng có chút gắt giọng với hắn.
Im lặng một lúc. Sau khi hắn xem những trang giấy viết và hai sơ đồ tôi trao khi bước vào, hắn lên tiếng:
“Sao anh nặng lời thế. Bài viết mà anh cho là tờ khai à.”
“Các anh có dùng từ ngữ gì đi nữa thì thực chất nó vẫn là tờ khai mà.”
Tên kia chen vào:
“Thôi được. Cứ luận bàn cách dùng từ không khéo lại lạc đề. Anh cho chúng tôi biết Tổng Cục Tiếp Vận của anh có cố vấn Mỹ không?”
“Từ cuối năm 1972 về trước thì có, sau đó thì không.”
“Họ đối với các anh như thế nào?”
“Anh có thể nêu câu hỏi rõ nghĩa một chút, vì tôi chưa hiểu ý anh muốn hỏi gì.”
Mặt hắn bắt đầu đỏ lên: “Mỹ chỉ huy các anh phải không?”
“Xin lỗi hai anh nghe. Bộ cố vấn Trung Cộng với cố vấn Liên Xô chỉ huy các anh hay sao mà anh hỏi tôi như vậy?”
Hắn đập tay xuống bàn nhưng không mạnh lắm:
“Anh trả lời câu hỏi của tôi. Anh phải nghiêm túc trước mặt chúng tôi.”
“Lại xin lỗi hai anh. Tôi nêu câu hỏi một cách đúng đắn. Sở dĩ tôi hỏi lại hai anh vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như trong câu hỏi có tính xác định Mỹ chỉ huy chúng tôi. Lạ tai lắm. Tôi trả lời là không. Cố vấn là cố vấn, hoàn toàn không có vấn đề người Mỹ chỉ huy chúng tôi như trên màn ảnh nhỏ mà các anh đã tạo dựng trong các vở kịch và tuồng cải lương mà tôi đã xem khi chưa vào trại.”
Cả hai lại bắt đầu đỏ mặt. Lại gằn giọng: “Anh có thành thật không?”
“Tùy hai anh đánh giá câu trả lời của tôi. Riêng với tôi thì tôi rất thành thật.”
“Vậy anh cụ thể điều mà anh nói cố vấn là cố vấn.”
“Tháng 4/1962, lúc ấy tôi phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở vùng đồng bằng Cửu Long. Lần đầu tiên chúng tôi được Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện không vận đổ quân ngay tại trận địa mà không cần nhẩy dù, đó là trực thăng H21 có hình dạng “trái chuối già”. Sĩ quan Hoa Kỳ hướng dẫn chúng tôi về kỹ thuật cất cánh, khi bay, khi hạ cánh, về khả năng hỏa lực, nói chung là những gì thuộc về khả năng và kỹ thuật của  phi cơ. Cố vấn tại đơn vị hướng dẫn thực tập lên quân xuống quân, còn chỉ huy khi thật sự lên quân xuống quân và tấn công các anh là chúng tôi. Một trường hợp khác, tại chiến trường, tức là lúc đánh nhau với các anh, cố vấn Hoa Kỳ tại các đơn vị đó là gạch nối giữa đơn vị trưởng của chúng tôi với đơn vị Pháo Binh và Không Quân chiến thuật Hoa Kỳ, để yểm trợ hỏa lực theo yêu cầu của cấp chỉ huy Việt Nam chúng tôi. Nói chung, Hoa Kỳ cố vấn chúng tôi về kỹ thuật các loại quân dụng mà Hoa Kỳ viện trợ và kỹ thuật bảo trì nó. Còn về chiến thuật, nhiều trường hợp, cố vấn Hoa Kỳ còn học kinh nghiệm từ phía chúng tôi thì làm gì có việc chỉ huy chúng tôi như các anh hỏi. Tôi nói Hoa Kỳ học chúng tôi, vì Hoa Kỳ không thể hiểu các anh như chúng tôi hiểu các anh, bởi trong cuộc chiến này bao gồm cả vấn đề văn hoá khi nghiên cứu về chiến lược chiến thuật”.
Im lặng một lúc, hắn hỏi: “Anh có chủ quan không?”
“Cũng tùy các anh thôi. Khi tôi trả lời các anh, tôi vẫn hiểu là các anh có nhiều cách để phối kiểm câu trả lời của tôi, vì các anh muốn gọi bất cứ ai trong số anh em chúng tôi ra làm việc thì gọi ra hỏi dễ dàng. Khi tôi hiểu như vậy, dại gì tôi nói theo cách tôi nghĩ, vì chẳng những không có lợi gì cho tôi mà trái lại có hại là cái chắc.”
Hắn nhìn thẳng tôi:
“Thôi được. Bây giờ chuyển sang đề tài khác. Ngành Mãi Dịch của anh là gì?”
“Đúng như tên gọi của nó là dịch vụ mua hàng cho nhu cầu quân đội chúng tôi mà trong nước có khả năng sản xuất.”                          
“Anh được cấp tiền như thế nào để mua hàng?”
“Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi mua hàng nhưng không bao giờ được ngân sách Quốc Phòng cấp một đồng bạc nào cả, nhưng mỗi năm tôi mua hàng trị giá trên dưới 30 tỷ đồng (30.000.000.000,00).”
Với giọng ngạc nhiên, hắn hỏi: “Bằng cách nào?”
 “Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ trách nhiệm thiết lập khế ước theo qui định quốc gia về nguyên tắc hành chánh mãi ước, theo đúng nhu cầu kỹ thuật của từng món hàng và số lượng mà cơ quan đơn vị yêu cầu. Hằng năm, ngân sách quốc phòng dành một ngân khoản thích hợp cho các cơ quan đơn vị trong ngành Tiếp Vậnị, để thực hiện những mặt hàng cần thiết cho quân đội mà nền kỹ nghệ trong nước sản xuất. Nhà thầu giao hàng trực tiếp cho các cơ quan đơn vị, nhưng tiền thì nhận ở Bộ Quốc Phòng. Nói chung, cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ kỹ thuật từ lúc gọi thầu đến khi tống đạt khế ước đến nhà thầu thi hành, và góp phần kiểm soát phẩm chất cùng với số lượng hàng khi nhà thầu giao tại các kho qui định trong khế ước.”
“Các anh lãnh lương của Mỹ bằng đô la chứ?”
“Tại sao Mỹ trả lương cho chúng tôi trong khi chúng tôi là quân nhân Việt Nam, phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam? Tôi quả quyết với các anh rằng, ngân sách của Bộ Quốc Phòng chúng tôi trả lương cho toàn thể quân nhân và công chức quốc phòng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa bằng đồng bạc Việt Nam chúng tôi.”
“Vậy tiền Mỹ viện trợ cho các anh dùng vào khoản nào?”
Nghe hỏi mà phát tức, tôi hơi gắt giọng:
“Có vẻ như các anh cho rằng chúng tôi chia nhau bỏ túi số tiền viện trợ phải không? Xin lỗi các anh, hằng năm Hoa Kỳ viện trợ cho quốc gia chúng tôi với một khoản tiền nào đó, trên các văn bản cũng như trên báo chí toàn là những con số về tiền, nhưng thực tế nó biến thành những món hàng mà chúng tôi gọi là dụng cụ chiến tranh, từ Hoa Kỳ đi thẳng vào các kho tồn trữ của chúng tôi từ trung ương đến các địa phương, nó cũng biến thành các khóa đào tạo các ngành chuyên môn trên đất Hoa Kỳ. Nói vắn tắt, tiền Hoa Kỳ viện trợ nhưng không phải viện trợ bằng tiền như các anh hiểu, mà là bằng dụng cụ chiến tranh và các dịch vụ quân sự.”
Bọn họ im lặng một lúc, chừng như họ ngạc nhiên lắm thì  phải. Theo tôi biết, trong ngân sách quốc phòng có phần viện trợ của Hoa Kỳ là 25% mà chúng tôi dùng nhóm chữ viện trợ chung đậu để chỉ số tiền đó, và nó bàng bạc trong các chương ngân sách chớ không riêng cho khoản chi về lương.
“Bây giờ là câu hỏi chót. Anh có thể vẽ sơ đồ ngành Tiếp Vận của anh chứ?”
“Được.”
Họ lại trao cho tôi mấy tờ giấy ô vuông và tôi có thời gian một tuần làm việc này. Một tuần là thong thả vì chỉ cần vài ngày là xong, vì vậy mà khi đến phiên nấu bếp tôi vẫn cùng các anh trong nhóm làm công việc này. Với lại nấu bếp tuy có phần vất vả nhưng cũng vui vui.
Đây là một trong những chuyện vui pha chút ngậm ngùi! Đó là mỗi sáng có một anh rất trẻ, tên Huệ, theo lời anh bạn ở Sư Đoàn 23 Bộ Binh thì anh Huệ là Thiếu Úy phục vụ Đại Đội Thám Báo Sư Đoàn, đã một lần bị thương có ảnh hưởng đến thần kinh. Cứ y như rằng, với cái  lon guigoze trên tay khi đến nhà bếp, anh vừa nói vừa cười nhưng không biết anh cười với ai nữa:
“Cho Thiếu Tướng gô nước cơm.”
Anh Điệp cười ngất và đáp: “Thiếu Tướng để đó, chờ cơm sôi tôi lấy cho!”
Vì vết thương chạm thần kinh nên anh tự cho mình là “Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B.” Cũng vì cái cấp bậc với cái chức vụ tự phong đó mà anh bị quân cộng sản bắt. Lại có anh bạn trẻ khác cũng trong tình trạng không bình thường như vậy, nhưng không do thương tích. Thường ngày, anh bạn này ăn xin ở chợ Bà Chiểu, Gia Định. Ngày 30/04/1975, anh ta lượm được cái áo treillis có cấp hiệu Thiếu Tá và vui vẻ mặc vào. Vài ngày sau anh bị công an cộng sản bắt vô trại tập trung, lại ở chung với “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ”. Thế là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ” cử anh “Thiếu Tá” này vào chức “sĩ quan tùy viên”.
“Sư Đoàn 23B” là một đơn vị không hề có trong tổ chức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thế nhưng sư đoàn này lại là một đề tài mà khi thẩm vấn tôi, họ cứ xoay quanh cái “sư đoàn” ấy.
Tuần lễ sau đó, thẩm vấn tái diễn. Vẫn hai tên cộng sản tuần trước. Xem xong sơ đồ, họ bắt đầu:
“Địa bàn hoạt động của Sư Đoàn 23B ở đâu?”
Tôi nhìn trái rồi nhìn phải để xem họ hỏi tôi hay hỏi ai. Một trong hai tên quát:  “Tại sao không trả lời tôi mà anh quan sát địa hình?”
Câu quát của hắn chừng như nghi ngờ tôi có ý định bỏ chạy thì phải.
“Tôi nhìn xem có phải anh hỏi tôi hay hỏi người nào khác, vì tôi phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (có cơ hội là tôi nhấn mạnh chữ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) vừa đúng 21 năm, chưa bao giờ nghe nói đến sư đoàn này, cho nên tôi nhìn xem có người nào khác ngoài tôi ra không, có gì đâu mà anh định gắn cho tôi cái âm mưu trốn trại.”
“Vậy tại sao các anh có Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B?”
“Các anh tin lời anh ấy sao. Anh ta chưa đến tuổi 30 làm sao lên đến cấp Tướng được. Theo chỗ tôi biết, anh ấy là Thiếu Úy phục vụ ở Sư  Đoàn 23 Bộ Binh. Trong trận đánh với các anh, viên đạn AK đã gây thương tích cơ thể làm chấn thương đến thần kinh anh ấy. Tôi chỉ biết đôi điều về anh ấy như vậy thôi.”
“Không ai lại tự mình khai quân hàm (tức cấp bậc) với chức vụ không có cả.”
“Có chớ. Anh Nguyễn Huệ khai với các anh đó.”
Vầng trán hắn nhăn nhúm cùng lúc với đôi mắt cau lại, chứng tỏ hắn đang tức tôi lắm. Lại gằn giọng:
“Anh có khẳng định là quân đội mấy anh không có Thiếu Tướng Nguyễn Huệ?”
“Chắc chắn là như vậy.”
“Anh nghĩ gì khi có người xác nhận quân đội các anh có Tướng Huệ?”
“Tôi không nghĩ gì hết mà tôi khẳng định người nào xác nhận như vậy thì người đó cũng có vấn đề về thần kinh như anh bạn trẻ chúng tôi đang mang cái tên Nguyễn Huệ. Còn tôi, cho đến bây giờ thần kinh tôi chưa có vấn đề.”
“Được. Chúng tôi tạm nghe như vậy. Về ngành Mãi Dịch của anh, chúng tôi sẽ trở lại vào ngày khác. Bây giờ anh cho chúng tôi biết, Đồng Văn Khuyên với Nguyễn Văn Chức của anh hiện nay ở đâu, và làm gì?”
“Tôi hoàn toàn không biết. Ngay cả gia đình tôi mà tôi cũng không biết thì làm sao tôi biết hai vị ấy ở đâu.”
“Khi ông Khuyên bỏ chạy có từ giã anh không?”
“Trung Tướng Khuyên có đến văn phòng tôi trước khi đi, nhưng không một lời từ giã. Nói cho đúng là cấp chỉ huy của tôi với tôi, chỉ nhìn nhau mà không ai nói với ai lời nào cả.”
“Ông Khuyên đi bằng gì?”
“Đi bằng xe Jeep.”
Hắn đỏ mặt lên và chồm tới cứ như muốn tát tai tôi vậy:
“Chạy sang Mỹ mà đi bằng xe Jeep à?”
“Tôi đâu có nói với anh là Trung Tướng Khuyên sang Hoa Kỳ bằng xe Jeep. Tôi trả lời chính xác theo câu hỏi của anh sao anh tức giận. Tôi nói rõ thêm là lần sau cùng gặp cấp chỉ huy của tôi là lúc ông ngồi trên xe Jeep, sau đó ông rời khỏi Tổng Cục Tiếp Vận để vào phi trường Tân Sơn Nhất. Còn ông ấy có đi được hay không, hoặc có đi được mà đi bằng gì, tôi hoàn toàn không biết.”
Có vẻ như hắn cảm thấy bị hố, nên nhẹ giọng:
“Có người nói là ông Khuyên không đi được, anh nghĩ sao?”
“Tôi không nghĩ gì hết, vì tôi hoàn toàn không biết tin tức gì về cấp chỉ huy của tôi sau khi xe Jeep đưa ông rời khỏi chỗ tôi đứng. Với lại ngay bây giờ, tôi chưa biết số phận long đong của tôi sẽ ra sao, thì lòng dạ nào tôi tìm hiểu về các cấp chỉ huy của tôi. ”
“Anh có biết Trung Tướng Trưởng không?” (Trung Tướng Ngô Quang Trưởng)
“Có. Tôi có biết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, nhưng chưa bao giờ làm việc dưới quyền ông, nên chỉ biết mà không hiểu gì về ông ấy.”
“Anh có tin tức gì về ông Trưởng không đi Mỹ mà đi Thái Lan không?”
“Tôi lại hoàn toàn không biết.”
“Sao cái gì anh cũng trả lời không biết?”
“Những gì tôi biết thì tôi trả lời tôi biết, còn những gì tôi không biết thì tôi trả lời không biết. Tôi còn nhớ sau khi học tập chính trị ở trại Long Giao, anh giảng viên hướng dẫn khai báo, anh ấy nói là cách mạng biết tất cả những việc mà chúng tôi đã làm, nhưng cách mạng muốn chúng tôi khai báo thành thật để đánh giá kết quả học tập. Tôi nghĩ, nếu tôi nói không thành thật thì các anh biết ngay thôi.”
Không hiểu hắn nghĩ gì về câu trả lời của tôi. Hắn nhìn thẳng vào tôi:
“Tuần này anh viết cho tôi về tổ chức ngành Tiếp Vận.”
“Tuần trước tôi đã vẽ sơ đồ rồi mà.”
“Tôi có xem. Nhưng tuần này anh viết cụ thể hơn. Bây giờ anh vào trại được rồi.”
Trở lại với anh “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B và anh tùy viên của Tư Lệnh”. Anh Nguyễn Huệ  “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B” những lúc tỉnh táo, anh nói chuyện hóm hỉnh và ý nghĩa nữa. Trường hợp điển hình là trong khi chờ đợi lon guigoze nước cơm sôi, anh tâm tình với nhóm nấu bếp chúng tôi rằng:
“Tôi xưng Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B, là tôi nói với cộng sản chớ không phải tôi nói với các ông (có lẽ do anh quá trẻ nên gọi chúng tôi bằng các ông thì phải). Các ông đừng buồn tôi”.
Anh ấy nói như vậy là lúc tỉnh, vì rõ ràng là những khi đến xin nước cơm thì anh vẫn xưng Thiếu Tướng với chúng tôi, chắc lúc ấy không tỉnh chăng?
Lại nói qua về “Thiếu Tá tùy viên của Tư Lệnh Sư Đoàn 23B”. Anh này gần như hoàn toàn bất bình thường, tệ hơn nữa có thể nói là khật khùng. Chẳng thấy anh ta nói chuyện với ai nhưng lúc nào cũng gắn sẳn nụ cười trên môi cứ như đang cười với ai đó, mà thật ra có thấy ai đâu. Cười khơi khơi đó quí vị quí bạn à! Cứ “tư lệnh” đi đâu thì “tùy viên” theo đến đó, đôi khi chậm trễ như xuống nhà bếp chẳng hạn, chỉ một lúc sau thì anh ta cũng đến đứng hay ngồi bên cạnh “sếp”, chờ xách lon guigoze nước cơm sôi cho “sếp”. Những chiều xem tivi ở hội trường, thì ”tùy viên” có trách nhiệm choán chỗ trước, bằng cách xách hai khúc gỗ cao su nhỏ dùng làm ghế ngồi cho “hai thầy trò”. Và y như rằng, ghế của “tùy viên” ngay sau lưng ghế của “tư lệnh”. Nói cho cùng, có hai anh chàng này đôi lúc cũng giúp cho nhiều người chung quanh đỡ buồn vì những hành động ngớ ngẩn của hai anh ấy. Ngược lại, bọn cộng sản ở trại Tam Hiệp này bối rối vì không tìm được “tông tích của Sư Đoàn 23B”.
Tôi lại ra ngoài trại cho họ thẩm vấn nữa đây. Lần này bọn họ ba đứa, hai đứa cũ với một đứa gặp lần đầu. Câu đầu tiên là vỗ mặt liền:
“Anh có biết vì sao Mỹ thua trong chiến tranh xâm lược Việt Nam không?”
“Xin lỗi các anh. Các anh muốn tôi trả lời theo bài học hay trả lời theo cách nghĩ của tôi?”
Hắn gằn giọng:  “Anh phải nghiêm túc khi trả lời câu hỏi của tôi.”
“Tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi hỏi như vậy để tôi trả lời đúng câu hỏi của anh.”
“Tại sao anh hỏi chúng tôi câu đó?”
“Tại vì bài học chính trị số 1 có dạy chúng tôi về nguyên nhân mà anh nêu trong câu hỏi rồi. Còn nếu anh muốn tôi trả lời theo cách nghĩ của tôi thì khác với bài học, liệu anh có chấp nhận không?”
“Trao đổi với anh cũng căng đấy. Các đồng chí của tôi đã nói đúng. Thôi, đừng có lý luận nữa, trả lời đi.”
“Lẽ ra câu ấy dùng cho tôi mới đúng, vì tôi hoàn toàn trong thế bị động, bị thẩm vấn. Bây giờ tôi trả lời các anh theo cách nghĩ của tôi. Cuộc chiến đã ngưng tiếng súng gần tròn một năm rồi mà tôi vẫn tự hỏi: Hoa Kỳ rút quân đội khỏi Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là do Hoa Kỳ thay đổi chiến lược sau khi bắt tay với Trung Hoa cộng sản, hay vì thất bại đúng nghĩa của nó? Mà cho dù là nguyên nhân nào đi nữa, rõ ràng là chúng tôi thua trận, nhưng thua trận mà bản thân tôi vẫn chưa lý giải được. Đó là điều luôn ám ảnh tôi, và cũng là câu mà tôi trả lời các anh. Tôi nghĩ là các anh không hài lòng, vì chính tôi cũng không hài lòng với tôi nữa mà.”
Cả bọn cùng nhìn thẳng vào tôi một lúc:
“Nếu như Mỹ bỏ rơi miền Nam, tại sao còn chở viện trợ tới cho các anh bằng những phi cơ vận tải lớn.”
“Chính trị mà các anh, có chữ nào một nghĩa đâu. Giờ này viện trợ, giờ sau chấm dứt, có gì lạ đâu. Và thực tế đã xảy ra như vậy đó.”
“Khi trả lời chúng tôi, có vẻ như anh bị mặc cảm thua trận phải không?”
“Đây là lần thứ tư tôi nghe câu hỏi này từ phía các anh. Khi trả lời các anh những lần trước đây cũng như ngay bây giờ, lúc nào tôi cũng ngẫng cao đầu. Tôi quan niệm rằng, khi hai bên đánh nhau phải có bên thắng bên thua, thậm chí khi gọi là huề cũng vẫn có bên thua bên thắng hiểu theo một ý nghĩa nào đó. Chúng tôi đã thua và đang trong tay các anh, tôi mặc cảm có giải quyết được gì đâu.”
Cả ba tên nhìn nhau, im lặng, rồi cùng nhìn tôi. Tôi không đoán được trong đầu bọn họ nghĩ gì qua nét nhìn đó. Vài phút tiếp theo, một tên nói:
“Anh có thể vào trại, chúng tôi sẽ gặp lại anh.”
“Chào các anh.”
Thưa quí vị quí bạn, qua ba lần thẩm vấn tính ra là 15 ngày rồi, bọn họ “xa luân chiến” nêu câu hỏi không ngưng nghỉ, có lẽ chiến thuật của họ làm cho người bị thẩm vấn mệt mỏi trong suy nghĩ mà khai thật với họ chăng? Hoặc bực tức rồi gây hấn với họ chăng? Kinh nghiệm qua những lần bị thẩm vấn khi còn ở Sài Gòn cho tôi quan niệm rằng: “Giữ được sự bình tỉnh cũng là kềm chế được lời nói của mình. Sự bình tỉnh giúp mình biết mình nên nói những gì, và mình hiểu họ muốn gì trong câu hỏi, để mà trả lời.” Và tôi có nét nhìn chung là họ nêu nhiều câu hỏi của một số vấn đề, nhưng quanh đi quẩn lại họ nhắm vào những câu sau đây:       
- Tại sao các anh thua nhanh vậy?
- Tướng Khuyên và Tướng Trưởng của anh ở đâu? Làm gì?
- Hầm bí mật chôn giấu vũ khí khí tài ở đâu?
- Và anh có mặc cảm thua trận phải không?
Kể ra cũng khá đau đầu vì bị họ luân phiên đặt câu hỏi, đi vòng vòng rồi cuối cùng họ cũng xoáy vào những câu hỏi mà họ dự liệu trước. Cho nên lúc nào cũng phải chuẩn bị tư tưởng để xung trận với họ. Đã khai như thế nào khi vào trại phải ghi chép lại để nhớ mà khai khi bị thẩm vấn những lần kế tiếp, vì sơ hở một chút có thể sẽ bị họ xoáy vào đó là rắc rối lắm. Trong những ngày bị thẩm vấn, anh Nguyễn Ngọc Điệp thường nhắc tôi uống nước đường để tỉnh táo mà đỡ đòn xa luân chiến của cộng sản. Cũng may là anh bạn trẻ, Đại Úy Không Quân, hằng ngày vẫncho tôi ly nước hà thủ ô pha đường, ngon lắm.
Nhân đây xin nói một chút về anh bạn trẻ này. Anh là Đại Úy Không Quân mà tôi quên tên, quê Vĩnh Long. Anh nói với tôi như sau: Cô ruột của anh là bà Dương Quỳnh Hoa, Bộ Trưởng Y Tế trong Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, là tổ chức ngoại vi của lãnh đạo cộng sản Việt Nam thành lập năm 1960. Sau ngày 30/04/1975, ba của anh đưa anh đến gặp bà Quỳnh Hoa để xem bà có giúp gì được cho anh không. Bà Dương Quỳnh Hoa trả lời với ba của anh một cách chua chát rằng:
“Không có cách nào giúp đâu anh. Thân em chưa biết ra sao thì nói gì đến cháu!”
Thế là anh bạn trẻ vào trại tập trung.
Trung tuần tháng 06/1976, trong khi nhiều bạn đang theo dõi chương trình trên màn ảnh nhỏ của đài truyền hình Sài Gòn mà họ đã gắn cái tên ông Hồ vào đó, bất ngờ xướng ngôn viên công bố chính sách khoan hồng nhân đạo (!) cho những sĩ quan viên chức cán bộ của Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền”. Tôi không bao giờ xem cái tivi đó mà chỉ nghe các bạn xem xong về thuật lại cho tất cả các bạn cùng nhà nghe. Vắn tắt thế này: “Đó là chính sách cải tạo ba năm trong các trại tập trung.”
Kiểm điểm lại những văn kiện của họ công bố chánh thức về cái gọi là chính sách đối với quân nhân viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, như sau:
Tháng 05/1975, bản thông cáo về chính sách khoan hồng nhân đạo 10 điểm của cái gọi là chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, nhưng cầm chắc là không phải do ông chánh phủ trời ơi đó viết đâu, mà lãnh đạo cộng sản tự làm nhưng gắn cái tên ông kỹ sư đó vào cho ra vẻ không cộng sản thôi. Võ bọc ngụy trang đó.
Đầu tháng 06/1975, cái thông cáo gọi đi học tập mà trong nội dung bảo chuẩn bị cho 30 ngày.
Và bây giờ, tháng 06/1976 là cái chính sách ba năm. Từ chính sách chung chung, đến 30 ngày, rồi 3 năm.
Nói là làm của “cách mạng” đó quí vị quí bạn à! Liệu rồi đây sẽ có chính sách bao nhiêu năm nữa? Không anh nào có can đảm suy đoán thêm. Thôi thì cứ bám giữ cái thời gian 3 năm này để mà sống vậy, dù chưa biết cuộc sống sẽ như thế nào!
Đây là đề tài lẽ ra ngay đêm nay bàn luận sôi nổi lắm, thế nhưng bầu không khí trong căn nhà số 2 này lại yên lặng một cách lạ thường! Phải chăng mỗi người trong chúng tôi đang có những suy nghĩ riêng tư của mình, và ngày mai mới bắt đầu chăng? Nhưng chưa kịp sáng mai vì ngay trong đêm, lúc ấy khoảng 10 giờ, có tiếng của lính cộng sản đến từng nhà của cấp Đại Tá, với giọng ồn ào:
“Tất cả các anh thức dậy, ra sân tập trung. Phải đi ngay tức thì.”
Thế là tất cả 4 Khối bỗng dưng trở nên ồn ào hẳn lên. Ai nấy vội mặc áo quần ra sân. Ngồi yên chỗ mới nhìn thấy khoảng 10 tên cộng sản đi tới đi lui, không ai đoán được điều gì sắp xảy ra cho mình cả. Sau khi họ đến từng nhà kiểm soát, biết chắc không còn ai trong các nhà đó, họ bắt đầu:
“Chúng tôi bắt đầu làm việc. Anh nào nghe thấy tên mình thì đứng dậy sang phía bên này”. Vừa ra lệnh hắn vừa chỉ tay qua khu vực sân còn trống.
Họ đọc cả họ tên, cấp bậc, chức vụ, đơn vị của từng người. Đến khi đọc xong danh sách, lượng người hai bên sân có thể nói là bằng nhau. Họ ra lệnh tiếp:
“Các anh vừa nghe đọc tên mình, về nhà thu xếp và mang tất cả tư trang ra đây trong vòng 15 phút. Các anh không có tên, ngồi yên tại chỗ.”
Tôi trong số còn ngồi lại. Anh em chúng tôi ngồi sát vào nhau bàn luận nho nhỏ vì chúng nó cứ chầm chập nhìn chúng tôi. Những mẫu chuyện mà chúng tôi rù rì với nhau như thế này:
“Về rồi các bạn ơi!”
“Về cái khỉ họ. Đêm qua chúng nó công bố chính sách 3 năm mà về nỗi gì. Chúng nó đưa tụi mình đi trại khác đó.”
“Chúng nó dám đưa mình ra Bắc không?”
“Ông là gì của nó mà nó không dám.”   
“Lúc nảy thằng cha Xê (trưởng khu cấp Đại Tá) nói là đi về hướng Hóc Môn thì đâu phải ra Bắc.”
“Thì chỉ có về mới đi hướng đó thôi mà.”
“Mấy cha cứ nghe tụi nó hoài. Chừng nào sự việc tới hãy hay, chớ cứ nghe chúng nó mà chết đó.”
“Từ 1 tháng trở thành 3 năm mà cứ tin chúng nó nữa à!”
Tôi không tham gia trong vụ bàn luận này, vì tôi nghĩ rằng: “Nếu chuyển trại sao lại đọc lý lịch kỹ vậy, cứ đến chở đi như hai lần trước thôi. Còn đi về, điều này chưa thể xảy ra, vì chúng nó mới công bố chính sách 3 năm, nói trắng ra chúng nó nhốt mình ít nhất là 3 năm mà bây giờ mới vừa đúng 1 năm làm sao về được. Với lại di chuyển ban đêm thì khó có được điều lành. Vậy thì đi đâu? Làm gì? Tôi không thể nào có được kết luận”. Tôi đang bối rối!
Sau khi phân nửa sân bên kia đông nghẹt người trở lại với mớ hành trang quá ư là lỉnh kỉnh luộm thuộm, vì mấy tháng nay ở trại này hầu như anh nào cũng tạo được một số tài sản linh tinh, từ cái thùng kéo nước với sợi dây nặng ơi là nặng, đến cái gàu cái rương cái hộp, đủ thứ hết vì cái gì cũng cần thiết cả.
Số còn lại được lệnh trở về ngủ tiếp. Anh em chúng tôi trong mỗi nhà kiểm điểm lại còn đúng một nửa, có nghĩa là số người đi một nửa. Hỏi chuyền sang các nhà khác, cũng y chang như vậy. Những con số ra đi một nửa này làm chúng tôi chú ý. Nếu đi về, tại sao lại đúng một nửa? Vậy, chắc là chuyển trại rồi. Lần này đi một nửa, và một nửa còn lại sẽ đi lần sau. Lý giải này có vẻ chấp nhận được. Thế là anh em chúng tôi trong tinh thần chuẩn bị, nhưng không đoán nỗi sẽ đi đâu. Tôi vẫn mắc kẹt cái câu “tại sao chuyển trại mà họ đọc lý lịch kỹ quá vậy?” Nhưng rồi tôi lại nghỉ: “Biết đâu đó cũng là cách họ đánh lừa mình chăng? Họ cố tạo những yếu tố không thật sự cần thiết cho một hành trình chuyển trại làm cho mình phán đoán sai cũng nên?” Đến đây có thể lý giải được phần nào những bàn luận của anh em chúng tôi.
“Hơn 12 giờ rồi, làm ơn ngủ giùm các bạn ơi!”
“Trời ơi! Chuyện quan trọng phải bàn cho ra lẽ chớ. Vừa rồi có mấy anh bên Khối 4 mò ra sát hàng rào, nhờ có ánh trăng mờ mờ nên thấy tụi nó xét đồ đạc kỹ lắm. Thùng gàu dây kéo nước, lon guigoze, nó liệng hết trơn. Nghe nó nói chỉ cho đem 1 cái lon guigoze, vì mỗi người chỉ được mang theo tối đa 20 kí lô thôi.”
“Dám mấy chả đi bằng phi cơ lắm à!”
“Tôi không nghĩ chúng nó đưa chúng mình ra Bắc, mà tôi cho là tụi nó đưa chúng mình vô rừng sâu nên không cho mang nặng vì đi bộ đường rừng mà, còn rừng sâu ở đâu thì tôi chịu thua.”
Đến quá nửa đêm chúng tôi mới nghe đoàn xe rời khỏi trại.   
“Bây giờ ngủ được rồi các bạn ơi!”
Thật ra chẳng mấy ai ngủ được thẳng giấc hết, bởi cái long đong nghiệt ngã đối với bản thân như thế nào, chưa ai suy đoán nỗi!
Thế rồi … Tiếng kẻng gọi dậy. Mặt trời lên. Mọi việc vẫn phải diễn tiến như thường ngày.
Toán nấu bếp gom ba toán làm một. Ra ngoài trại lãnh su-le vẫn theo lượng 92 người ăn cho mỗi nhà và họ dặn ăn trong hai ngày. Đúng thôi, vì mỗi nhà chỉ còn lại một nửa số người. Và rồi ngày hôm nay, thời gian có vẻ như trôi qua một cách chậm chạp trong nỗi lo âu hay niềm vui xa xôi nào đó, tùy theo cách nghĩ của mỗi người trong số chúng tôi. Chẳng hạn như nghĩ rằng ở lại là tội nhẹ, mà tội nhẹ thì có thể về sớm. Có người trong nỗi lo vì cái số long đong luôn đeo đẳng bên mình, trong khi chính mình không lý giải nỗi cái long đong đó!
Ngày kế tiếp, họ lại gọi ra ngoài trại lãnh thêm một ít trái su-le nữa, và họ dặn gộp lại số lượng lãnh hôm qua và hôm nay chia ra ăn trong 4 ngày. Đến tối họ lại bảo chia số su-le đó ra ăn trong 7 ngày. Hầu hết anh em chúng tôi còn lại đều tin rằng, ít nhất cũng còn ở đây 7 ngày nữa kể từ hôm nay, và tự cho mình cái thanh thản trong thời gian đó.
Nhưng lại bị lừa! Thế mới đau! Đau là vì từng cho rằng, lúc nào cộng sản cũng nói dối, cũng tìm cách đánh lừa mà mình vẫn tin. Nhưng nghĩ cho cùng, khi mà con người không có gì để bám víu cho cuộc sống long đong, thì bất cứ gì xem như có thể bám được thì cứ bám còn hơn là buông xuôi! Đêm xuống từ lâu, chuyện bàn cũng hết, nhưng chưa ai ngủ. Bị lừa là bất thình lình, một toán lính cộng sản đi từng nhà ra cái lệnh giống hệt cái lệnh mà một nửa trong số anh em chúng tôi đã di chuyển đi đâu không ai biết:
“Tất cả các anh thức dậy và ra sân tập trung ngay lập tức.”
Mọi người vừa ra khỏi mùng, họ nối thêm cái đuôi nghe rất khô khan:
“Các anh mang theo tất cả tư trang.”          
Mang theo tư trang mà phải đi tức thì, cái lệnh nghe mà phát tức! Thôi thì hơi sức đâu mà dồn ép chữ nghĩa, trong khi mọi người gần như ngỡ ngàng về cái lệnh chia rau ăn 7 ngày mà lại dọn đi ngay trong đêm!
Vẫn cái cảnh cách đây một đêm, nghĩa là họ vẫn đọc tên, cấp bậc, chức vụ, đơn vị, ai nghe tên mình thì đứng dậy và sang bên kia ngồi. Khi họ xếp danh sách lại, thì số người còn ngồi tại chỗ chỉ khoảng hơn chục người mà hầu hết là bác sĩ quân y. Sau khi họ cho số người còn lại vào nhà ngủ tiếp, họ ra lệnh cho chúng tôi:
“Theo thứ tự từng danh sách, các anh mang tư trang ra ngoài trại theo hướng dẫn của bộ đội.”
Mỗi danh sách là một B cùng ngồi một chỗ. Họ ra lệnh tiếp:
“Các anh bày tất cả tư trang ra trước mặt để chúng tôi kiểm tra.”
Họ đi xét từng người, lục từng món. Thùng, gàu, dây kéo nước, họ quẳng xuống cái đường mương cạn trước mặt. Có mấy cái lon guigoze chẳng cần biết, họ chỉ cho để lại 1 cái còn bao nhiêu họ liệng luôn. Khi tôi thu xếp phần còn lại vào cái túi đeo lưng, tôi thấy bốn tên lính cộng sản đứng dưới mương gom lại tất cả những gì mà mấy tên lục xét liệng xuống đó. Thật là trắng trợn, đứa này lấy của mình liệng xuống, đứa kia lượm lên làm của. Lục xét xong thì đám dưới mương cũng gom đồ đạc xong. Tất cả chúng tôi nằm ngồi tại chỗ mà ngắm trăng bất đắc dĩ!
Quá nửa đêm một chút, đoàn xe Molotova già cỗi kia mới đến. Tất cả lên xe. Đoàn xe hướng về Sài Gòn. Chầm chậm. Dọc hai bên đường, lính cộng sản tay cầm súng trong tư thế chiến đấu, giống như lúc chở chúng tôi từ khu đại học xá Minh Mạng Sài Gòn lên Long Giao, rồi từ Long Giao xuống Tam Hiệp, Biên Hòa, cũng vậy. Nghĩa là chỉ có một kế hoạch an ninh dùng cho 3 lần vận chuyển chúng tôi. Chắc chắn là đám lính này giữ an ninh cho đoàn xe chúng tôi đây. Vậy là họ sợ chúng  tôi sẽ được ai đó giải thoát chăng? Nhưng chánh phủ  nói “học tập cải tạo” mà sao họ giữ chúng tôi kỹ quá? Vậy, sự thật là gì?
Đoàn xe vào lộ Hàng Xanh. Qua đường Chi Lăng. Rẽ lên đường Võ Di Nguy. Tôi theo dõi đoạn đường đi qua, nhưng chưa đoán được họ đưa chúng tôi đi đâu. Có lúc cứ tưởng là lên Ngã Năm Chuồng Chó để lên hướng Hóc Môn. Nhưng không, đoàn xe rẽ vào Tân Sơn Nhất từ đường Võ Di Nguy. Chắc là họ cố ý nên cho đoàn xe chạy vòng vèo trong khu vực Tân Sơn Nhất, để rồi cuối cùng dừng lại một trong những “cái ụ” mà ngày trước Không Quân dùng che chắn phi cơ tránh đạn và hỏa tiển của quân cộng sản.
Lúc đó là 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/06/1976, và là ngày thứ nhất của năm thứ hai đối với tôi kể từ ngày “trình diện” họ tại khu đại học xá Minh Mạng, Sài Gòn. Họ ra lệnh:
“Tất cả các anh tập trung vào đây (vào cái ụ chứa phi cơ),  không một ai tự ý ra khỏi khu vực này.”
Tôi nhìn lên đầu tường che chắn ụ này, đầy lính cộng sản đứng bên trên, tay cầm súng cũng trong tư thế chiến đấu. Lần lượt các bạn nhìn thấy nhiều giấy gói đồ vung vải trong ụ mới suy đoán một nửa các bạn đi trước đã có mặt nơi đây. Từ đó suy đoán thêm, vậy là chúng ta sẽ đến cùng chỗ với các bạn đi trước thôi. Trong số những mảnh giấy lượm được, có mẫu giấy còn nguyên tên của anh Đại Tá Lê Ngọc Quỳnh, trước là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 7 Công Binh Kiến Tạo ở Cần Thơ. Tôi nói với anh Lê Minh Luân (Không Quân):
“Anh Luân ơi! Tôi đoán chúng nó đưa mình ra Bắc à anh. Các bạn đi trước đã ra đó rồi, chớ nếu chúng nó giữ mình ở miền Nam thì chúng không chở bằng máy bay đâu.”
“Cầm chắc là thế rồi.”
Sau đó họ đem lương khô phân phối cho chúng tôi, mỗi khẩu phần là một mẫu bánh như bánh in bày bán ở chợ Sài Gòn để ăn trong ngày. Lương khô này do Trung Hoa cộng sản sản xuất, cứng hơn bánh in thường và rất mặn. Tôi ăn ngay một miếng vì đói quá, miếng còn lại cho vào túi áo treillis đang mặc để ăn sau. Trong thời gian ở trại Tam Hiệp, họ phát cho chúng tôi mỗi người một bộ treillis mà họ đã lấy trong các kho của ngành Quân Nhu chúng tôi.
Hai chiếc phi cơ vận tải C130 mà trước kia là của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, đang từ từ đến. Dừng hẳn lại. Bọn họ ra lệnh:
“Các anh được đi bằng máy bay, yêu cầu các anh phải tuân thủ sự chỉ dẫn sắp xếp của chúng tôi trong thời gian di chuyển. Tư trang sắp xếp gọn gàng. Vì điều kiện an ninh cần thiết, chúng tôi sẽ áp dụng một số biện pháp mà lãnh đạo chúng tôi qui định. Hành lý cho lên trước. Các anh xếp hàng đôi, và lên máy bay từng hai người một.”
Khi mọi người ngồi xong, động cơ máy bay hoạt động, cửa sau được nâng lên cũng là lúc hai tên cộng sản xách theo hai xâu còng từ khoang lái máy bay ra, mỗi đứa phụ trách một bên băng chúng tôi đang ngồi. Một tên “oắt tì” hách dịch:
“Các anh cởi đồng hồ cất vào túi. Xắn tay áo lên. Các anh làm khẩn trương  để máy bay cất cánh.”
Rồi chúng nó lần lượt còng từng anh em chúng tôi. Tôi ngồi ở cuối băng, bên trái tôi là cửa sau vừa được nâng sát lên. Bên phải tôi là anh Đại Tá Nguyễn Văn Tài, Phòng 2 Tổng Tham Mưu. Họ bảo tôi:
Hai tay kẹp ngược vào nhau như thế này.“
Vừa nói hắn vừa thực hành để tôi làm theo. Bàn tay trái hướng về cùi chỏ tay phải, và tay phải làm ngược lại. Còng số 8 bóp vào crắc! Thế là hai tay dính vào nhau! Tôi nhìn thấy hai giọt nước mắt của anh Tài từ từ trôi xuống!
Tôi thúc nhẹ cùi chỏ phải vào hông anh và nói khẽ:
“Anh Tài, anh giấu những giọt nước mắt đi, đừng để tụi nó coi thường mình. Từ nay tôi dứt khoát tụi mình là tù của bọn nó chớ hổng phải học tập gì hết”.
Buổi sáng, ánh mặt trời hướng Đông. Tôi ngồi ngược ánh nắng, và phi cơ bay về bên trái, vậy là hướng ra miền Bắc rồi. Tôi nâng tay lên cố cho hai ngón tay vào túi áo treillis để kẹp lấy miếng bánh in lương khô còn lại, nhưng không vói tới. Thật ra tôi chưa thấy đói, nhưng muốn giữ cho thái độ không bối rối khi suy nghĩ của tôi bảo tôi là tù chính trị của cộng sản! Một tên cộng sản bước tới, gằn giọng:
“Anh làm gì thế?”
“Tôi muốn lấy lương khô ra ăn.”
Hắn mở nắp túi lấy ra đưa cho tôi, kèm theo câu :
“Các anh muốn gì thì nói chứ không được có bất cứ thái độ nào.”
Tiếng của bạn nào đó ngồi bên phải tôi một khoảng cách:
“Ta đang bay trên một vùng hoàn toàn lạ, có lẽ qua khỏi Bến Hải rồi.”
Tên cộng sản lúc nảy quát:
“Các anh không được quan sát địa hình.” 

No comments: