Friday, October 28, 2011

Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà. Tiếp theo và hết

Nấu ăn.

Cuối năm 1981, sau thời gian khá dài, những vật dụng của chúng tôi bị bắt buộc để bên ngoài buồng giam bị mất cắp càng lúc càng nhiều vào ban đêm, nhất là thức ăn do gia đình mang đến khi thăm nuôi, tất cả Đội Trưởng chúng tôi cùng đề nghị Ban Giám Thị trại giải quyết tình trạng này, vì ban đêm không một tù chính trị lẫn tù hình sự nào ở ngoài buồng giam cả. Chúng tôi không nói ra, nhưng điều đó có nghĩa là chúng tôi muốn nói “Công An canh gác và tuần tra trong khuôn viên trại” là kẻ cắp chớ không ai khác. Chỉ có buồng giam 15 và 16 vì không có “nhà ăn” bên ngoài nên tất cả đồ đạc lỉnh kỉnh đều để trong buồng giam, còn các buồng giam có nhà ăn phải để đồ đạc bên ngoài.
Trại tổ chức buổi họp với tất cả Đội Trưởng tù chính trị chúng tôi. Thảo luận một lúc, họ chấp nhận cho chúng tôi mỗi chiều đem vào buồng giam những gì mà chúng tôi thấy cần, và mỗi sáng phải đem ra ngoài ngay khi cửa buồng giam mở. Đồ đạc đem vào để ở lối đi giữa hai sạp nằm. Thấy được một bước, chúng tôi đề nghị cho tù chính trị chúng tôi được nấu ăn trong khuôn viên buồng giam để có thêm dinh dưỡng. Thế nhưng chúng tôi rất ngạc nhiên là họ chấp nhận đề nghị của chúng tôi ngay. Rất có thể họ đã có quyết định về việc này để họ khỏi mang tiếng với thế giới là họ bắt chúng tôi vào tù mà không nuôi ăn cũng nên? Họ nói thêm:
“Khi lao động về, các  anh được mang theo bó củi nhỏ vào ngày thứ ba và thứ sáu, nhưng cả Đội phải cột lại hai bó thôi. Bếp làm sát hàng rào phía sau khuôn viên buồng”.
Thế là chúng tôi sắm nồi niêu tô chén bằng cách xin gia đình mang theo khi đến thăm nuôi hoặc gởi các chị bạn mang giúp. Cái bếp là dễ nhất, chỉ cần mấy cục gạch là xong. Củi thì lượm ở khu trồng rau mang về, hoặc mua lại của những bạn mang vào trại vừa sử dụng vừa bán. Lệnh của họ bắt phải cột lại thành hai bó, nhưng những tên Công An -ngoại trừ tên Thịnh khuỳnh- cũng nương tay, nên mỗi người chúng tôi cũng mang vào được một bó nhỏ. Từ lúc ấy, nhiều anh em chúng tôi trong các Đội trồng rau cũng như trong các Đội làm gần đó “ăn cắp rau” nhiều hơn. Ăn cắp thì không khó vì là bạn cả,  nhưng đem được rau vào trại mới thật sự là khó. Ấy vậy mà rau vào trại ”bất hợp pháp” ngày càng nhiều thêm.
Đây là cái hoạt cảnh “chuyên chở rau” vào trại mà tôi là điển hình vào những tuần lễ đầu tiên, lúc ấy rau chúng tôi trồng chưa ăn được, nên phải sang Đội bên cạnh xin hoặc “ăn cắp”. Rau muống hoặc cải xanh tùy mùa. Xin lỗi quí vị quí bạn dùng tay che mắt lại cho tôi cởi cái quần dài ra, tôi dùng sợi giây quấn vòng quanh bắp chân lên đến bắp vế. Sau khi mối cuối cùng cột lại cho chặt, tay trái nong sợi giây ra rồi ghim những cọng rau vào. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi những cọng rau nằm im hai bên ống chân từ trên xuống dưới, tôi mặc cái quần dài vào là xong. Bây giờ quí vị quí bạn buông tay ra được rồi. Thế là tôi thản nhiên vào trại. Nói vậy chớ thật ra có hôm bị đám trực trại xét cũng phập phồng lắm, tuy không phải lúc nào họ cũng khám xét trên người. Các bạn tù trẻ còn ghim những cọng rau vào phần ngực và bụng để có được nhiều thêm chút ít.   
 Tôi nói “họ nương tay” cũng không phải đơn thuần như vậy đâu quí vị quí bạn à! Thật ra là ngay sau cái lệnh cho anh em chúng tôi nấu ăn thêm, từng bước, anh em chúng tôi tùy khả  năng mỗi người, “mua chuộc” đám trực trại với quản giáo và võ trang bằng những tách cà phê, thuốc lá đầu lọc, bột ngọt, mì gói, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thuốc tây thì anh Phạm Kim Qui (Đại Tá Phụ Tá Tư Pháp tại bộ tư lệnh Cảnh Sát) nhiều nhất vì vợ anh gởi về từ Paris.
Cạnh khu vực trồng rau có hai cái mương vừa lớn vừa dài do đất đào lên đấp thành khu trồng rau. Thường ngày có những cậu bé từ chợ Ba Sao vào, hoặc những tên quản giáo với võ trang đến đây câu rê. Nhờ đó mà thỉnh thoảng tôi mua được cá lóc. Chúng tôi gọi là cá lóc nhưng người dân  địa phương gọi là “cá trào” hay “cá trèo đồi”. Mỗi khi mua được cá, tôi làm sạch để nguyên con cho vào cái gà-mèn tròn, cùng với rau muống, muối, bột ngọt đem theo, treo cạnh thùng nước đang nấu trên bếp của anh Nguyện. Khoảng 30 phút sau là tôi có gà-mèn canh. Thế là giờ giải lao giữa buổi, tôi với anh Nguyễn Kim Tây có bữa ăn thật ngon.
Do được nấu ăn mà họ gọi là “bồi dưỡng” mà sức khỏe tù chính trị chúng tôi, nhìn chung, có phần khá hơn những năm trước đó. Nhớ lại những năm 1977-1980 mà hãi hùng! Rất nhiều bạn đã chết do thiếu dinh dưỡng. Trong những năm đó, chỉ riêng trong buồng giam số 1 chúng tôi có thể chia thành ba nhóm về phong cách ăn uống: Nhóm thứ nhất, có bao nhiêu cứ ăn hết bấy nhiêu cho cái bao tử dễ chịu một chút. Nhóm thứ hai, vừa ăn vừa dành dụm cho những ngày kế tiếp. Nhóm thứ ba, ăn theo kiểu “sương rơi mùa hạ” mà điển hình là ăn đường cát. Mỗi ba tháng lãnh được 100 gram đường cát. Vài bạn trong nhóm này dùng cây tăm xỉa răng hoặc bẻ nhánh cây chuốt nhỏ lại như cây tăm, để vào lưỡi cho đầu cây tăm thấm ướt, cho vào đường cát dính ở đầu cây tăm trên dưới 10 hột đường, cho vào miệng nhâm nhi thưởng thức cái chất ngọt trôi chầm chậm vào cơ thể. Và cứ thưởng thức như vậy cho đến hết 100 gram đường, tương tự như lúc ăn bo-bo bằng cây tăm vậy.

Niềm vui cao nhất.    

Tôi thấy cần giải thích ngay kẻo quí vị quí bạn tưởng là tôi được ra khỏi trại tập trung này. Niềm vui đó là cuối tháng 5 năm 1981, vợ tôi báo tin vắn tắt rằng hai con chúng tôi -Phạm Tuyết Vân 20 tuổi, và Phạm Bá Nghĩa 10 tuổi- sau hai ngày vượt biển đã được thương thuyền ngoại quốc vớt đưa đến Singapore bình an. Hai ngày sau nữa, vợ tôi nhận được điện tín xác nhận tin đó. Tôi nói với anh Nguyễn Kim Tây:
“Tây ơi Tây. Nhà ngươi có nhớ hồi năm ngoái vợ ta ra thăm có dắt theo con gái với thằng trai út không?”
“Có. Tuyết Vân với thằng nhóc đòi uống nước đá chớ gì”.
“Đúng. Bây giờ hai con ta tới trại tị nạn Singapore rồi nhà ngươi”.
“Nhà ngươi được thư của Chị rồi hả?”
“Anh Lê Viết Mười vừa được Chị ấy đến thăm, có mang theo thư ngắn và quà của vợ ta”.
“Vợ nhà ngươi can đảm thiệt. Cho tụi nhỏ đi từng đợt và tất cả đến nơi bình an. Đâu phải gia đình nào cũng có cái may mắn tròn vẹn ấy. Còn thằng ở trại tị nạn Phi Luật Tân đến Mỹ chưa?”
“Nó đến Houston hồi tháng 3 (1981) ở chung với hai anh nó. Ta quên nói với nhà ngươi”.
“Vậy là nhà ngươi ăn mừng chớ?”
“Tất nhiên. Ngay tối nay. Mình ăn bánh uống trà với cà phê trong gói quà mà anh Mười vừa mang vào giùm chiều nay”.
Tháng sau đó, tôi nhận được thư của vợ tôi do chị Nguyễn Tài Lâm mang ra và chui qua chú tù hình sự vào “hộp thư chết”. Trong đó có thư của con gái tôi thuật lại rằng:
“Bác Trại Trưởng và một bác nữa nói là bạn cũ của Ba. Hai bác trợ giúp tụi con về thủ tục giấy tờ nhanh chóng lắm nên Con hi vọng sang Hoa Kỳ sớm”.
Con tôi không nói tên hai bạn ấy, có lẽ nó sợ cộng sản kiểm soát thư vì thư gởi về Sài Gòn, trước khi đến tôi. Cuối năm 2007, khi viết đến đoạn này, tôi có hỏi con gái tôi (năm nay 46 tuổi) về tên của hai anh bạn giúp nó hồi năm 1981, nhưng con tôi chỉ nhớ như tôi đang nhớ. Vì vậy, tôi nhờ những dòng chữ này chuyên chở lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến hai bạn ấy, cùng tất cả những bạn nào đã giúp đỡ các con chúng tôi  lúc chạy nạn cộng sản, trong khi tôi bị nhốt trong trại tập trung mà cộng sản gọi là trại cải tạo.
Nhóm chữ “chạy nạn cộng sản” dường như chưa phơi bày hết tính chất độc tài tàn bạo của cộng sản nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, có lẽ phải dùng nhóm chữ “cộng sản là thảm họa của nhân loại” mới đúng. Nói ngắn gọn là “thảm họa cộng sản”. Trong tập nhật ký Rồng Rắn của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng cộng sản viết trong năm 2000 và 2001. Ông nêu rất nhiều câu hỏi với chính ông liên quan đến chủ nghĩa xã hội mà lãnh đạo của ông tự tôn vinh là ưu việt, nhưng sau 25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội mà người dân ngày càng kiệt quệ, xã hội ngày càng suy đồi? Và ông nêu câu hỏi với lãnh đạo của ông:
“Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Việt Nam, có đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết trốn chạy tìm đường sống ở các nước khác?
Vì là thảm họa của nhân loại, nên quốc gia nào bị cộng sản cai trị thì y như rằng, các thành phần trong xã hội đều tìm mọi phương cách chạy trốn. Dĩ nhiên không phải muốn chạy là chạy được vì nhiều yếu tố liên quan, chẳng hạn như: Lòng can đảm chấp nhận hiểm nguy bất trắc với mức độ rất cao của người quyết tâm ra đi cũng như của người thân còn lại, tiền bạc, âm thầm tìm tổ chức đưa người vượt thoát, phương cách vượt thoát từ nhà đến địa điểm hẹn mà tránh bị Công An rình rập bắt bỏ tù, thậm chí bị chúng bắn chết tại chỗ, người còn lại phải có cách đối phó với đám Công An địa phương, ..v..v...      
Đầu tháng 09/1981, sau hơn 3 tháng ở trại tị nạn trên đảo quốc Singapore, hai con tôi đến Houston. Thế là các con chúng tôi: Tháng 4 năm 1980 hai con trai vượt biển đến Thái Lan, tháng 10 cùng năm một con trai vượt biển đến Phi Luật Tân, tháng 05/1981 một con gái và một con trai vượt biển  đến Singapore, tất cả các con chúng tôi -bốn trai và 1 gái- cùng đến Houston, với sự giúp đỡ của các em tôi là vợ chồng Phạm Phi Long, vợ chồng Phạm Thu Nguyệt, và em út Phạm Bá Sáng, định cư tại đây từ những năm trước đó. Bốn đứa con lớn, vừa đi học vừa đi làm, đứa nhỏ nhất học tiểu học.
Với nỗi vui mừng tột độ đó, tôi viết trang thư gởi “chui qua hộp thư chết” ra nhà thăm nuôi, nhờ mang về Sài Gòn để vợ tôi gởi sang Hoa Kỳ cho các con tôi. Nội dung gồm những lời khen tặng vợ tôi, cũng là vừa khen vừa khuyến khích các con tôi bắt đầu hành trình “xây dựng tương lai”. Sau khi đọc đi đọc lại mấy lần, tôi nắn nót từ trang thư thành “trang thơ tự do”, với tựa “Dù Thế Nào Anh Vẫn Nhận Ra Em”:
Vào một ngày nắng hạ
một chín bảy lăm (1975)
Anh phải đi “học tập”
Em ở lại cùng con
Một vòng tay, hai nụ hôn từ giã
Em đứng nhìn, đôi mắt đỏ long lanh
Em nghẹn ngào:
     bởi vì đâu, hai đứa phải chia tay Anh hởi?
                 liệu cuộc đời, bước ngoặc có xa không?
Anh nói khẽ:
     hoàn cảnh mình, ai biết được ngày mai
                 ta hẳn biết, sẽ sum vầy sau ba mươi ngày xa vắng! (1)
                                               
***
Nhưng
chẳng phải ba mươi ngày
                 cũng chẳng phải ba năm (2)
mà là một trăm bốn mươi bảy tuần trăng tròn khuyết (3)
Đó là thời gian
     cũng là cuộc sống
Cuộc sống ấy, với biết bao gian khổ
Bủa vây Em, mà Em phải xông pha
Là vợ người chiến sĩ
     hai mươi năm dài binh nghiệp (4)
                 tích lũy dần, đức tính đảm đương
Bằng tình yêu Chồng, và tình Mẹ thương Con
Em chấp nhận cuộc đời
                 dẩm lên mà bước
                 đạp xuống mà đi
                 và Em đi thật vững
Với Anh
     dù ngàn dặm xa xôi cách trở
     dù nắng hạ oi nồng
     dù rét buốt mùa đông
     Em vẫn đến thăm chồng
                 bằng tất cả tâm hồn trong sáng ấy
Với Con
     dù trên lằn ranh tù ngục
     dù trên lằn biên sống chết
     dù ray rứt tâm tư
                 bởi tình thương người Mẹ
     Nhưng
                 vì tương lai con trẻ
                 Em tập trung nghị lực
                 vẫn lệ nhòa, khi tiễn các Con đi

                                                ***
Các Con này
     đường tương lai trước mắt
                 Phải trau dồi Kiến Thức
                 Đạo Đức phải vun bồi
                 Và giũa mài Nghị Lực                                                       
phải vững vàng, bước tiếp nghe Con
Đừng ngập ngừng, khi vấp ngã
Hãy đứng lên, kịp bước với bạn hiền
Thành công nào, cũng trả giá nghe Con
Và chính đó, mới vẹn tròn ý nghĩa
Ráng nghe Con
     đừng phụ Mẹ Ba
     với Ông Bà Cô Chú Cậu Dì
                                                ***
Em
Mười hai năm qua
Em đã lớn biết bao
                 lớn bởi cách nhìn
                 lớn do cách nghĩ
                 lớn về tầm cao nghị lực
                 và lớn về chiều sâu tâm hồn
Ôi!
Nỗi cô đơn, những năm dài cách biệt
     Tình yêu chồng
Em đong bằng nước mắt!
                 Tình thương Con
                 Em nhỏ lệ cánh thư dài!
Giờ đây
     một vòng tay, hai nụ hôn đoàn tụ
     nói gì đây, Anh biết nói gì đây
Anh chỉ nói được rằng:
Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
     bởi Em, có một tình yêu đầy đặn với Chồng
     bởi Em, có một thương dào dạt với Con
     bởi Em, có một tình quyến thuộc họ hàng
     và bởi Em, có một tình người với bạn
Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
     bởi Em, là nửa phần hơi thở của hồn Anh
     bởi Em, là nửa phần con tim Anh đang nhịp
     và bởi Em, là nửa phần cuộc sống của riêng Anh
Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
     bởi Em là Người Vợ
                  Người Yêu
                 Người Bạn Đời mãi mãi của riêng Anh
Dù thế nào Anh vẫn nhận ra Em
     để hôn Em, với những nụ hôn dài
                 và hôn Em, với những nụ hôn dài …       
(1) Tại Sài Gòn, thông cáo của cộng sản bảo chuẩn bị học tập 30 ngày.
(2) Tại trại Tam Hiệp, cộng sản nói chính sách cải tạo 3 năm.
(3) 147 tháng, hay là 12 năm 3 tháng trong các trại tập trung.
(4) 21 năm trong quân ngũ. 
                                                           
Thưa quí vị quí bạn,
Bài thơ này khi ra trại tập trung về Sài Gòn hồi tháng 9 năm 1987, tôi cập nhật thời gian cho thích hợp. Cũng xin giải thích thêm về nỗi vui mừng của tôi. Trong những năm 1960, vợ chồng tôi bắt đầu một kế hoạch dành dụm cho con trai lớn du học sau khi xong bậc trung học. Vì đến lúc ấy, chúng tôi chỉ có khả năng thế thôi, trong khi hi vọng con tôi sau khi thành đạt có thể đùm bọc các em nó. Giờ đây, dù muốn hay không muốn, rõ ràng là trong cái “nguy” vì chế độ tự do sụp đổ, lại có cái “cơ” hội. Vì không thể sống nỗi dưới chế độ độc tài tàn bạo của cộng sản, ngay đến cái đơn xin vào làm tiệm giặt ủi cũng không được chấp nhận vì là con của “Đại Tá ngụy”, nên các con tôi phải vượt biển tìm tự do, và an toàn đến vùng đất tự do xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Vậy là tất cả các con chúng tôi được “du học tại chỗ” trên đất nước có nền giáo dục khoa học kỹ thuật được xếp vào bậc nhất thế giới. Khi biết được “thư chui” của tôi đã đến tay một chị bạn và chị ấy đã rời nhà thăm nuôi để về Sài Gòn, tôi mỉm cười khi nghĩ rằng:
“Nếu tôi có chết trong trại tập trung của cộng sản, tôi vẫn giữ nụ cười khi nhắm mắt”, vì các con chúng tôi có được tương lai, mà tương lai của các con chúng tôi chính là cuộc sống là hạnh phúc của vợ chồng tôi.

Trại Nam Hà giai đoạn 1982-1987.       

Tết Nguyên Đán đầu năm 1982 là Tết thứ tư tại trại Nam Hà này. Từ cái bánh chưn kha khá, nhỏ dần xuống, rồi đến nhỏ xíu. Tết năm nay cái bánh chưn biến mất, thay vào đó là chén cơm nếp với 5 điếu thuốc lá đen. Nếu như không được gia đình tiếp tế thì tù chính trị chúng tôi sẽ là “những bộ xương cách trí” như tù hình sự thôi. Dưới chế độ cộng sản, từ quận/huyện tỉnh/ thành phố, đặc khu, biệt khu, đều có nhà tù, cộng thêm hằng loạt nhà tù trực thuộc trung ương nữa. Bởi dưới chế độ này, mọi người dân đều có tội với nhà nước vì mỗi người không tội này cũng là tội khác, ngay cả ý kiến khác với nhà nước đã là có tội rồi. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người dân không được nói những điều cộng sản cấm nói mà phải nói những gì cộng sản bảo nói, người dân không được thấy những gì cộng sản cấm thấy những phải thấy những gì cộng sản bắt thấy, người dân không được nghe những gì cộng sản cấm nghe nhưng phải nghe những gì cộng sản bắt nghe. Vì vậy mà nhà tù trên toàn cõi Việt Nam nhiều vô kể.
Tình hình kinh tế xã hội chủ  nghĩa của họ suy sụp dần. Đầu năm 1979, họ bắt đầu cho gia đình đến thăm và mang theo lương thực thực phẩm nuôi tù chính trị. Nhờ vậy mà tình trạng sức khỏe của anh em tù chính trị chúng tôi, nhìn chung là tốt, và “cái tốt” này lại là điều để họ khoe với các phái đoàn ngoại quốc đến thăm, chứng tỏ cho thế giới bên ngoài thấy cái mà họ gọi là chính sách nhân đạo đối với tù chính trị không có điều gì chỉ trích cả. Cái bản chất gian trá của họ dễ dàng nhận thấy trong các trại tập trung.
Có lẽ do đời sống ngày càng suy kém của người dân nói chung, và của đám Công An “cai tù” nơi đây nói riêng, mà gần đây anh em chúng tôi mua chuộc được đám Công An trực trại với đám Công An quản giáo và võ trang, ngoại trừ tên “Thịnh khuỳnh” và tên “Thắng chuột” an ninh. Dần dần chúng tôi có phần dễ thở. Điển hình như trường hợp Đội chúng tôi, cứ mỗi sáng khi đến chỗ lao động, tôi cho tên quản giáo với tên võ trang 20 điếu thuốc quấn với bình trà, thế là chúng nó ngồi trong lều chớ không đi tới đi lui kiểm soát chúng tôi làm. Sở dĩ tôi cho nó thuốc hút với trà uống, vì nó đồng ý với tôi là khi giao việc cho chúng tôi thì chúng nó chỉ kiểm soát trước giờ về thôi. Thật ra chúng nó có bao giờ kiểm soát tất cả đâu. Thí dụ như giao chúng tôi mỗi người mỗi ngày đào và trồng 5 hốc bí rợ trong khu rừng chồi chen lẫn đá tảng, đâu làm sao chúng nó đếm từng cái một để biết chắc là chúng tôi làm đúng hay không đúng số lượng chúng giao.
Ngày Ba Mươi và Mồng Một Tết, không một tên Công An nào vào trong trại. Thấy yên tịnh, bắt đầu có vài cuộc họp mặt đồng hương, ăn bánh mứt uống trà và nói với nhau cả chuyện xưa lẫn chuyện nay. Thấy được, anh em chúng tôi họp mặt nhau trong cùng binh chủng hay cùng đơn vị, hoặc họp bạn đồng khóa. Đông cũng được vài chục bạn, ít cũng năm bảy người. Tất nhiên là phải chọn cái góc nào đó trong trại tương đối kín đáo, hoặc nơi nào dễ trông thấy chúng nó vào trại để kịp giải tán. Hơn 20 anh em cùng khóa 5 Thủ Đức chúng tôi cũng ngồi lại với nhau ở sát góc buồng giam số 2. Mỗi anh mang theo vật dụng đựng nước uống, nếu anh nào có bánh mứt thì mang đến, ngoài ra còn mang theo cái gì đó để làm ghế ngồi. Anh Văn Công Báu (Trung Tá Lực Lượng Đặc Biệt) nấu cho một thùng nước trà. Anh Khoa (Trung Tá Cảnh Sát) nhiều tuổi nhất, được anh em bầu làm “chủ tọa”. Anh Khoa có vài lời:
“Tôi thành thật cám ơn các bạn. Trong chiến tranh, chúng ta gặp nhau trên khắp nẻo đường, bây giờ thua trận, chúng ta gặp nhau trong trại tập trung, đây là điều đáng quí của chúng mình. Mong rằng, buổi họp mặt đơn giản nhưng có phần ấm áp hôm nay, sẽ giữ mãi cho chúng ta một gạch nối tình cảm cho tương lai, dù chúng ta chưa biết tương lai sẽ ra sao. Xin mời các anh cùng nâng chén trà gọi là cùng nhau chúc mừng năm mới”.
Thế là tất cả anh em gần như nói cùng lúc: “Chúc Mừng Năm Mới”, như vừa chúc cho bạn, cũng vừa chúc cho mình.
Tôi đưa ý kiến:
“Bây giờ chúng ta thử bàn đến lời của ông Phạm Văn Đồng -Thủ Tướng cộng sản- đã nói chúng ta là thành phần ác ôn không thể tha thứ, đồng thời với sự kiện gần đây có dư luận cho rằng Hoa Kỳ sẽ “bốc” chúng ta sang Mỹ. Tôi nghĩ là chúng ta khó có đủ yếu tố khả dĩ dẫn đến kết luận, nhưng biết đâu trong lúc bàn luận lại có những điều mới có thể giúp chúng mình cập nhật những hiểu biết liên quan…..”
Nói đến đây thì anh Bùi Quang Hiền đứng ở hành lang ngay lối vào buồng 2 này, anh ngoắc tôi:
“Anh và mấy anh cẩn thận. Tụi nó đứng ngoài cổng trại đông lắm, có thằng Thịnh khuỳnh nữa”.
Tôi bước nhanh đến đầu hành lang nhìn ra nhà trực trại ngay bên ngoài cổng. Đúng là tụi nó khá đông. Chạy vội vào trong:
“Các bạn ơi! Không xong rồi, chúng ta nên giải tán thì hơn, chúng nó vào trông thấy là phiền phức lắm”.
Anh Khoa: “Giải tán anh em ơi! Một lần nữa, tôi cám ơn và chúc các anh sức khỏe và giữ vững nghị lực. Chúng ta sang bên Văn Hoá đi”.
Anh em chúng tôi tay xách ghế xách lon theo hành lang ra sân trại để sang bên Văn Hoá. Anh Khoa đi sau cùng. Lúc anh vừa ra khỏi hành lang để sang Tổ Văn Hoá bên kia sân trại, Thịnh khuỳnh vào cổng với một toán Công An sau lưng. Hắn chận anh Khoa lại:
“Các anh họp hành gì đó?”
“Báo cáo cán bộ, không ạ! Vài anh em chúng tôi ngồi ăn bánh uống trà cho vui thôi cán bộ. Bây giờ sang Văn Hoá xem chung kết cờ tướng”.
Hắn nhìn một lúc:
“May cho các anh đó. Bộ các anh tưởng chúng tôi không biết các anh làm gì à!”
Anh Khoa lẳng lặng băng qua sân trại về hướng phòng văn hoá.
Chẳng bao lâu sau đó, anh Khoa bị tai biến mạch máu não và chết ngay. Anh Khoa bị cao huyết áp, đang mùa đông anh nấu nước nóng pha nước lạnh cho ấm để tắm. Nước ấm hết trong khi cơ thể chưa sạch xà bông, anh dùng lon nước lạnh xối lên đầu, thế là ngã quỵ trên nền xi măng. Và chết ngay sau đó.  

Vợ tôi đến thăm.

Tuần kế tiếp, vẫn còn thoang thoảng hương vị ngày Tết Nguyên Đán. Trong khi lao động buổi sáng, tôi mua được nửa kí lô thịt heo nạc và khi cơm xong tôi bắt đầu kho tiêu. Lúc ấy kẻng báo thức buổi chiều vang vang, tôi vội nếm xem mặn lạt ra sao để dẹp vào và chuẩn bị lao động. Anh Nguyễn Tài Lâm gọi tôi:
“Hoa ơi! Cán bộ gọi thăm nuôi kìa”.
“Thiệt hông Lâm?”
“Cán bộ Trọng chờ anh kìa”. Trọng trong toán trực trại.
Anh Ngô Văn Huế: “Anh vô chuẩn bị đi, để nồi thịt tôi kho cho”.
Tôi ra đến đầu hành lang gặp ngay Trọng “cụ non”. Công An ở đây gọi hắn là “Trọng cụ non” vì lúc nào trông hắn cũng giống như “ông cụ” vậy.
“Anh chuẩn bị ra gặp gia đình”.
“Ai thăm tôi vậy cán bộ?”
“Tôi không rõ. Cán bộ Thúy nhờ tôi gọi anh đấy”.
“Cám ơn cán bộ”.
Tôi nghĩ mãi nhưng vẫn không đoán được là ai đến thăm. Vì mùa đông giá rét này chắc chắn không phải là Ba tôi, còn vợ tôi đang bận lo cho mấy đứa em vượt biển chưa xong. Trong thư gần đây vợ tôi cho biết, sau khi các con đến noi an toàn, vợ tôi lo cho mấy đứa em vượt biển. Ngoài Ba tôi với vợ tôi, tôi nghĩ không có ai đến thăm tôi hết. Có thể là vợ tôi nhờ chị bạn nào đó nhân đến thăm gia đình, thăm tôi luôn.
Quanh năm mặc quần áo tù, lâu lâu được mặc quần tây sơ mi vào, cảm thấy gọn và khỏe. Với cái áo sơ mi ngắn tay màu vàng và cái quần tây màu nâu mà vợ tôi mua cho trong chuyến thăm tôi hồi giữa năm 1980, đôi giày thể thao do Mỹ sản xuất mà anh Trịnh Xuân Nghiêm (Sư Đoàn Nhẩy Dù) nhượng lại tôi vì chân anh đi không vừa. Trước khi ra khỏi phòng, anh Đặng Văn Hậu bảo tôi xoay qua xoay lại:
“Ê! Trông còn phong độ lắm nghe”.
“Thiệt hông đó?”
“Tớ nói thiệt mà”.
Ra đến nhà trực trại, thấy nụ cười của tên Thịnh khuỳnh là phát ghét rồi. Hắn hỏi:
“Ai thăm anh mà diện thế?”
“Báo cáo cán bộ, tôi không biết”.
Công An Thúy, phụ trách hướng dẫn thăm nuôi, cười cười và nói nho nhỏ:
“Đã biết mà còn hỏi. Khéo vớ vẩn”.
Tên Thịnh khuỳnh hỏi tôi:
“Nào, có thư từ gì bỏ ra ngay”.
“Không có gì cả cán bộ”.
“Chắc không. Tôi kiểm tra có thì anh tính sao?”
“Chắc chắn mà cán bộ. Cán bộ cứ kiểm soát tôi đi, nếu có gì vi phạm nội qui tôi chịu kỷ luật”.
 Họ dùng chữ kiểm tra, tôi dùng chữ “kiểm soát. Hắn chưa buông tha:
“Trong giày có gì không?”
“Chỉ có vớ không thôi, cán bộ”. 
“Anh đùa đấy à?”
“Tôi nói thật mà cán bộ”Không biết hắn có tin hay không, nhưng còn ráng thêm một câu nghe như ân huệ:
“Được rồi. Đội Trưởng tôi không kiểm tra”.
“Cán bộ nói vậy chớ thật ra cán bộ kiểm soát tôi rồi”.                            
“Được. Chỉ một lúc thôi nhé!”
- Chính sách lừa dối để đẩy hằng trăm ngàn quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung mà họ gọi là học tập cải tạo. (Năm 2004, khi xem tạp chí Dân Vận của đảng bộ Việt Quốc tại Đức, tôi đọc được những con số sau đây: Theo tài liệu của Sở Công An Sài Gòn mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, đến cuối tháng 07/1975, cộng sản đã đẩy 154.772 người vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10/1975, Cảnh Sát Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30/10/1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Trong số khoảng 200 trại này, chỉ riêng Đoàn 776 của họ, đã quản trị đến 82 trại trong tổ chức của 6 Liên Trại trong vùng rừng núi từ Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, ngược lên thượng nguồn Sông Hồng đến tận biên giới Việt Nam-Trung Hoa) 
- Ngày 20/08/1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh thiêu hủy tất cả văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa vì họ cho là loại phản động và đồi trụy. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra tòa án nhân dân. Chính sách này trong một mức độ nào đó, tương tự như chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và của  Mao Trạch Đông thời Trung Hoa cộng sản.
- Ngày 18/09/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn.
- Ngày 10/11/1975, chính sách triệt hạ kinh doanh thương mãi tự do, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là vận  động hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là khu kinh tế mới tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.
- Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21/03/1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13/06/1976. 
- Tháng 06/1977, lại một chính sách khác ra đời. Đó là chính sách buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là vận động đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính.      
Người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ tại Sài Gòn, có câu nói truyền cho nhau nghe thật là cay đắng: Hòa bình, bắt đầu sum họp, cũng là lúc chia ly!” Những bạn đồng đội từ các đơn vị xa xôi về quê sum họp với gia đình, nhưng rồi lại chia ly không ngày trở lại! Câu này cũng có thể hiểu “bọn cộng sản sum họp, người tự do chia ly! Cũng có câu: “Nếu cái cột đèn mà đi được thì nó cũng vượt biển rồi”.             
Vợ tôi nhắc lại chuyện con thứ tư của chúng tôi là Phạm Bá Hùng vượt biển từ bờ biển Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, hồi giữa năm 1980. Bị quân cộng sản phác giác truy lùng, nhiều người lớn cùng với con tôi và các bạn nó bị bắt. Nhà giam chật quá, với lại có lẽ chúng nó thấy con tôi còn nhỏ (mới 14 tuổi), chúng nó bảo con tôi xuống nhà bếp phụ việc lặt vặt. Mấy ngày sau chúng nó thả về. Lúc ấy con tôi trần trụi vì lúc chạy "bán sống bán chết", cái áo bị các nhánh cây "giữ làm kỷ niệm" lúc nào chẳng hay. Có một gia đình gần đó, thấy vậy mới cho con tôi một cái áo, mà là "cái áo con gái" vì nhà bà không có con trai. Khi con tôi về đến nhà Ba Má tôi ở Nha Mân,  Ba Má tôi và vợ tôi trông thấy, vừa cười vừa khóc! Khóc vì thấy nó nhỏ quá mà bị tù, còn cười vì cái áo con gái trên người nó. Khi còn sống, mỗi khi Ba Má tôi nhắc lại chuyện ấy là Ông Bà cười thật tươi. Hiện giờ (năm 2008) con trai tôi đã vào tuổi 42, có vợ 2 con, và có cơ sở làm ăn ở tiểu bang khác. Chúng tôi xin mượn những dòng chữ này để bày tỏ lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến gia đình ân nhân của con chúng tôi 28 năm về trước. Cái áo không là bao, nhưng điều nghĩa ân mới là đáng quí".           
“Thăm gì mà thăm liền thế?”
“Anh định nói gì đấy? Đi vô”.
Nhân lúc xuống dốc, tôi phụ đẩy xe quà của anh bạn để khỏi phải lôi thôi với con nhỏ có cái miệng quai xách này. Đám quản giáo với võ trang gọi cô ta là “Thúy tây” vì xem ra cô ta có phần trắng trẻo và sạch sẽ hơn những Công An “tóc dài” khác trong trại này. Con bé này “chưa nhận hối lộ” từ khi phụ trách hướng dẫn thăm nuôi thay con bé Kim. Hơn hai tháng trước, “Thúy tây” rình chụp được một vụ. Hôm ấy anh Vũ Văn Dần (Đại Tá Cảnh Sát) được gia đình đến thăm và được ở lại 24 tiếng. Có mấy anh kéo xe cát về ngang nhà thăm nuôi, ngừng trước cửa, chắc là do anh Dần bảo nên chị Dần bước vội ra và dúi nắm tiền vào đống cát trên xe cải tiến, “Thúy tây” đứng sau khung cửa sổ trông thấy nhưng không nói gì hết. Khi các bạn kéo xe cải tiến đi, cô ta nói lớn:

Nỗi khổ của dân quê.

Đội 5 chúng tôi vào thung lũng khai phá trồng bí rợ và khoai mì. Thung lũng có nhiều cỏ tranh nên đám Công An gọi là thung gianh, trong khi chúng tôi gọi tắt là “thung”. Cách trại khoảng 4 cây số mỗi lượt đi về nên chúng tôi làm “thông tầm”, đi từ sáng đến chiếu mới về. Thung, toàn đá tảng trải dài hai bên triền núi cao, lác đác có đất trống từng mảng nhỏ nhưng cỏ tranh cao khỏi đầu. Công việc của chúng tôi là tìm những phần đất cỏ tranh để dọn sạch đào hốc trồng bí rợ và cuốc những khoảnh đất trống trồng khoai mì. Khởi đầu còn có Đội 6 với Đội 7 cùng vào thung lũng này, nhưng vài tháng sau chúng nó chuyển hai Đội bạn lao động khu vực khác.
Thung lũng này rất rộng. Khi chúng tôi vào đây thì nhiều gia đình nông dân đang dở chòi và đào khoai mì mà họ gọi là thu hoạch để tìm vùng đất khác trồng trọt. Hỏi ra mới biết, nhiều gia đình nông dân từ Phủ Lý vào đây khai thác thung lũng hoang vu này cách nay 3 năm, khi thấy canh tác được nên Công An trại đuổi họ đi nơi khác với lý do đất của trại, họ bị đuổi nhưng không được một đền bù gì cả. Trong số dân nghèo khai phá trồng trọt ở đây, có gia đình ông Tạ với hai cô con gái, chuyển chòi của họ sát vào chân núi mà phía bên kia chân núi là nhà thăm nuôi của trại. Gia đình này đào khoai đến đâu, chúng tôi đào hốc trồng bí rợ đến đó. Tôi hỏi chị Tạ sau khi tìm hiểu về tình cảnh những gia đình canh tác nơi đây:
Anh Dương Công Liêm ngạc nhiên: “Chị nói thiệt hả?”
Các bạn chung quanh cùng nói: “Cháu can đảm thiệt”.
Anh Liêm hỏi: “Chị Tạ ơi! Cháu này được mấy tuổi rồi chị?”
Vào những ngày giáp Tết, tên võ trang bảo tôi theo hắn vào làng cùi mua vài món về ăn. Ở đây có bán gà vịt, trái cây, rau cải. Vào làng cùi, phải thú thật là tôi rất sợ, vì mọi người già trẻ lớn bé, không lở loét cũng tay không ngón, chân không bàn. Vì là lần đầu hắn kéo tôi  đến đây nên trong túi không có đồng nào cả mà chỉ đi một vòng rồi quay về Đội. Từ ngày Đội chúng tôi vào thung lũng này, có thể nói là chúng tôi “mua đứt” tên quản giáo với tên võ trang, cho dẫu là tên võ trang thay đổi hằng tháng, có khi hằng tuần. Mỗi sáng đến khu vực trồng bí, tôi cho mỗi đứa 10 điếu thuốc quấn và lon guigoze nước trà, do chú Hổ -bạn tù trẻ- nấu. Thuốc quấn, là thuốc điếu người ta quấn bằng tay bán từng bó 100 điếu chỉ vài đồng, mà tôi gởi tên quản giáo mua giùm để phát cho chúng nó hút khi ốheo Đội .
 Lúc ăn sáng ăn trưa, ngoài anh Phạm Kim Tấn (Trung Tá Cảnh Sát), tôi, với chú Hổ, còn có tên quản giáo với võ trang cùng ăn với chúng tôi. Trừ lúc ăn, hai tên gần như chỉ ngồi trong cái chòi bé xíu cách chòi chúng tôi không xa, vì hắn đồng ý với tôi là khi giao só lượng hốc bí cho chúng tôi làm, đến chiều trước khi rời nơi đây hắn mới kiểm soát kết quả việc làm. Nhưng làm sao hắn kiểm soát nỗi vì khu vực rộng lớn toàn đá tảng với bụi rậm, chỗ này vài hốc bí, xa xa chỗ kia vài hốc bí, ngay khi chúng tôi đi tìm cũng khó chớ nói gì tên quản giáo kiểm soát. Chỉ khi những giây bí nằm la liệt trên các tảng đá hắn mới trông thấy được.

Hãy gọi là “thể thao”.

Hào hứng nhất là bóng tròn, hay nói cho dễ hiểu là đá banh. Bước đầu hình thành tương đối khó, nhưng sau đó thì cả trại chia ra 3 đội hạng A và 3 đội hạng B. Tôi nói “chia ra” chớ không phải tổ chức, vì bất cứ bạn nào chịu mang giày vào sân, và thích đội nào thì vào đội đó miễn đủ 7 người là được. Thay vì đội banh phải 11 người, nhưng vì sân trại không đủ kích thước của sân banh, nên chỉ cần 7 cầu thủ: 1 thủ môn + 2 hậu vệ + 1 trung vệ + và 3 ở hàng tiền đạo. Chia ra là như vậy, chớ nếu “tổ chức” phải chọn những anh thích hợp từng vị trí trong sân. Nguồn gốc của “phong trào” đá banh, xin tạm gọi như vậy cho ra vẻ một chút, là đầu tháng 09/1981, tổ Văn Hoá do anh Dương Huy Nam (đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng) trách nhiệm, được trại cấp cho 2 trái banh để tù chính trị đá chơi nhân ngày lễ 2/9 của họ. Anh Cao Văn Phước, một thời là thành viên Tổng Cuộc Bóng Tròn Việt Nam, và từng hướng dẫn đoàn tuyển thủ bóng tròn tham dự nhiều giải quốc tế, tương tự như anh Chu Văn Sáng bên bóng bàn vậy. Anh Phước rủ từng anh vào sân đá banh chơi. Thế là nhiều anh em tham gia, đá hươu đá vượn gì cũng được, miễn có chạy tới chạy lui thì đám trực trại mới mở cửa buồng giam cho ra ở ngoài xem.
Do hàng hóa sản xuất tại Sài Gòn dù là Sài Gòn cộng sản vẫn có được phẩm chất tốt, cho nên những tên Công An được đi công tác trong miền Nam, họ xem như tương đương với xuất ngoại sang Liên Xô vậy. Và đám Công An quản giáo với võ trang, rất thích đá banh sản xuất tại Sài Gòn, nhưng vì không có nên chúng nó muối mặt vào trại đá với tù chính trị chúng tôi. Chúng tôi đá với nhau còn nương tay nương chân, nhưng với đám Công An thì chúng tôi đá đến nơi đến chốn lắm, nghĩa là thẳng chân. Ngón nghề nào dùng được là dùng với họ nhưng không sợ chúng nó trả thù, vì khi đến chỗ lao động chúng nó vẫn nhờ cậy chúng tôi về trà thuốc, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thỉnh thoảng cũng có đứa chơi xấu, lúc ấy anh em khán giả chúng tôi la ó dữ lắm, có hôm đến mức đám trực trại phải đánh kẻng nhốt vào buồng giam.
Bình thường không có lý do gì để “tranh giải” thì giữa các buồng giam cáp độ đá với nhau, đội banh của buồng nào thua phải đãi bên buồng thắng một nồi chè. Chè gì cũng được nhưng phải ngọt đúng mức, vì có lần buồng chúng tôi thắng trận nhưng khi ăn chè giống như ăn đậu xanh luộc vậy quí vị quí bạn à! Có những trận giữa hai đội lão tướng, hoặc hai đội trẻ, lần vui nhất là đá với nhau giữa hai đội độc thân. Vui vì độc thân được hiểu là còn trẻ, thế nhưng anh Nguyễn Kim Tây lúc ấy hơn 50 tuổi mà vẫn độc thân, cũng phải vào sân. Theo banh một lúc là đứng thở để banh lăn tự do. Chưa hết, chúng tôi còn cáp độ giữa khu bên này với khu bên kia nữa, tức là các buồng giam khu bên kia thành lập một đội banh, đấu với đội banh của các buồng giam khu bên này. Như vậy quí vị quí bạn cũng hình dung được là các cầu thủ “xào qua xáo lại” để có những cái tên đội banh nghe như nhiều lắm, chẳng hạn như trận đấu giữa hai đội lão tướng, trận đấu giữa hai đội thanh niên, trận đấu giữa hai đội của hai khu, trận đấu giữa hai đội độc thân, trận đấu giữa đội nhà bếp với “đội tuyển trại”, vì đội nhà bếp có nhiều cầu thủ ngon lành lắm, ..v..v…Có điều là trận banh càng dở chừng nào càng làm cho khán giả cười đến đau bụng lận. 
Tháng sau đó, khoảng 200 cấp Đại Tá trong trại Nam Hà A -kể cả số Đại Tá từ trại Hà Tây mới chuyển đến- cùng chuyển vào Nam, và nghe đâu bị nhốt trong các trại tập trung ở Xuân Lộc với Hàm Tân. Riêng số bạn cấp Đại Tá hoặc viên chức hành chánh cao cấp trong Tổ Dịch Thuật từ Hà Tây đến, không một bạn nào chuyển vào Nam. Tổ này chuyên dịch các tài liệu và các sách Anh ngữ lẫn Pháp ngữ, nghe nói do cơ quan nghiên cứu gì đó thuộc Bộ Quốc Phòng của cộng sản đưa dịch. Trong số các bạn từ Hà Tây xuống, còn có các vị cựu Tướng Lãnh và bị nhốt riêng trong buồng giam số 3. Các vị không ra ngoài lao động mà chỉ quanh quẩn trong khuôn viên buồng giam này.

Nỗi khổ của nữ công nhân.

“Liệu cán bộ Cảnh -quản giáo- có cho tôi đi không?”  
Tên võ trang đi trước, tôi theo sau. Băng qua làng người cùi, ngang qua khu rừng chồi, bắt đầu vào khu vực Đội 4 Nông Trường Trà ở thượng nguồn thung lũng. Hắn mặc đồ Công An, tôi mặc quần áo tù. Đứng trước gian nhà thật nhỏ ngay đầu dãy, đang có sáu cô gái ngồi bên trong. Một trong sáu cô gái vui vẻ:
“Giới thiệu với các cô, đây là anh Hoa”.
“Sao hôm nay cô Lan rào đón thế?” 
Cô gái tên Lan trả lời:
“Anh có đến đây lần nào chưa?”
Tên võ trang cắt ngang dường như nó quê vì không cô nào nói chuyện với nó:         
 Ngưng một lúc, dường như cô ta đang xúc động!
“Tại vì chế độ trong đó thoáng hơn”.
Đó là cách gợi thêm tính tò mò của cô ta nên tôi bỏ lửng như vậy. Tên Minh châm mồi:
“Tưởng gì chứ tin đó bình thường thôi. Hiện giờ công nhân nữ ở Nông Trường nào cũng thế đấy. Bộ anh Minh tưởng Nông Trường này ít à!”
“Chẳng lẽ cứ câu chuyện này mãi sao!
“Anh Hoa, anh mang trà này về trại uống. Ở đây chúng em chỉ có thế”.
Những nhận xét trên đây, chính là ông Hồ và những nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, vừa xây dựng con người trên nền tảng duy vật vừa phá tan đạo đức dân tộc để thay vào đó cái gọi là đạo đức cách mạng, chỉ biết nghe theo đảng và chết cho đảng. Hoàn toàn không có cái gì thuộc về bản thân của những thế hệ thanh niên đúng nghĩa thông thường nữa.     
Tôi rút cây viết ra vì trong cây viết có cái đồng hồ nhỏ xíu mà vợ tôi cho hồi đầu năm nay, thấy còn thì  giờ, tôi đi một vòng xem qua những đám bí rợ và khoai mì. Bí rợ thì vài tuần nữa là hái được, nhưng khoai mì còn phải vài tháng nữa. Trồng khoai mì thì sau khi bỏ “cọng hom” xuống cái hốc, cứ chờ đến ngày nhỗ lên lấy củ, trong khi dây bí rợ bò tứ tung phải kéo đầu nó để lên các tảng đá hoặc những nhánh cây nhỏ cho nó bám vào. Khi bí rợ ra hoa mà hoa thì có hoa đực hoa cái, cứ mỗi sáng anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) được phân công, len chân vào đám bí ngắt “hoa đực” đem cắm vào “hoa cái” gọi là “thụ phấn” để có đủ âm dương mà kết thành trái. Đúng ra theo tự nhiên thì “hoa cái” thụ phấn do ong, bướm, kiến, đậu trên hoa đực rồi bám vào hoa cái, thế nhưng “nước sông công tù” nên dư nhân công để làm “cái việc ấy” thay ong bướm. Khi từ nụ hoa kết thành trái thì phát triển nhanh lắm. Đến khi không cần cho kết trái nữa sau khi mỗi giây chỉ để 2 trái cho nó lớn, chúng tôi tha hồ ngắt đọt bí và bông bí luộc hay nấu canh đều ngon cả. Tôi nói luộc hay nấu canh, quí vị quí bạn nghe như những món ăn “đâu ra đó” chớ thật ra chỉ là nồi nước với đọt bí bông bí bên trong, đổ nước ra gọi nó là luộc, để nguyên nước cho vào chút muối với chút bột ngọt gọi nó là canh.

Nỗi khổ của hai ba thế hệ.

Nơi mà chúng tôi chọn làm cái lều nhỏ xíu để nấu nước cho Đội và anh em tự nấu cái gì đó để ăn, là ngã ba đường mòn. Con đường mòn này dài theo thung lũng, có cái ngã ba leo lên dốc núi khá cao để qua thung lũng bên kia núi thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, vì bên đó có nhiều người dân từ Phủ Lý vào khai phá trồng trọt. Trong số những người dân làm lụng bên đó có một gia đình bốn người, gồm: Một ông già khoảng 60 tuổi với 3 đứa cháu: Một cô gái khoảng 20 tuổi, và hai cậu bé 12 và 14 tuổi. Theo lời ông cụ, mỗi lần vào là ở đó một tuần, về lại Phủ Lý vài ngày thì trở vô. Nhìn thấy cả gia đình gánh khoai mì từ thung lũng bên kia, leo lên đỉnh núi cao, lại tuột dốc xuống thung lũng chúng tôi đang làm, lại leo lên cái đỉnh núi nữa mới xuống đến con đường đá gần nhà thăm nuôi để ra Ba Sao rồi về Phủ Lý. Những củ khoai mì cột chặt ở hai đầu cây tre mà gánh. Ông cụ với cô gái, mỗi người khoảng 15 kí lô, mỗi cậu bé 7 kí lô. Nhìn tận mắt cái lam lũ của gia đình này thật là tội nghiệp! Cuộc sống của họ bi đát quá! Hơn 20 năm sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc cằn cỗi này, họ chỉ được ăn những củ khoai mì mà họ đổ ra biết bao công lao cộng với hiểm nguy của núi rừng mới có được! Nếu muốn ăn gạo, phải bán 3 kí lô khoai mì mới đủ mua 1 kí lô gạo.
Ông già hỏi lại: “Ông nói bột ngọt là gì thế?”
Cậu bé nhanh miệng: “Là mì chính đó Nội”.
“Vậy là ở nhà có dùng phải không cậu bé?”
“Cám ơn ông. Thật là quí hóa quá”.
“Ngoài này nghèo lắm ông ơi!”
Thời gian cứ tuần tự trôi qua và đám bí rợ đến ngày cắt trái. Đội chúng tôi cắt và gom lại một chỗ, Đội khác vào đây khiêng về. Phải một tuần lễ mới cắt hết trái. Tổng cộng lần cắt bí này mà họ gọi là thu hoạch đầu tiên, bộ phận kế hoạch cân được 2.600 kí lô. Thật ra, trước khi cắt bí thì anh em chúng tôi tự do ăn cắp những trái nho nhỏ đem về trại luộc, xào, kho, hay nấu canh. Còn tại  chỗ thì cắt ăn công khai. Ngay cả quản giáo với võ trang, cho dẫu có lục lọi cách mấy cũng không thể nào tìm thấy tất cả trái bí.
Khu vực này khoảng 2 cây số vuông, rất nhiều tảng đá hốc đá mà ở đó giây bí trái bí chen lẫn với cỏ tranh và cây dại hoa dại. Tôi, anh Trần Ngọc Thống, và anh Nguyễn Xuân Dung chuyên viên thụ phấn, chúng tôi biết rõ những trái bí nằm ở đâu vì chúng tôi giấu nó từ lúc còn nhỏ, nên chúng tôi chỉ chỗ cho các bạn ăn cắp. Với lại theo lời của cán bộ Cảnh -quản giáo- thì bộ phận kế hoạch cho là “được mùa bí” nên họ chỉ kiểm soát qua loa chớ không hạch hỏi gì. Nói chung là họ không thể tìm thấy “cái bê bối” về cái gọi là “chỉ tiêu” đã giao cho chúng tôi.
“Vậy là nhận rồi hén. Người ta là ai? Khai lẹ lên”.
Anh Thăng cười lớn:
“Ô! Đây cũng thế. Vậy là Phe ta rồi. Cho bắt tay cái đi”.

Vài nét đặc biệt.

- Chú Nguyễn Kim Tiếng (Cảnh Sát đặc biệt) cũng là bạn trẻ trong Đội 20 cũ, từ lúc ở tù không một thân nhân nào đến thăm. Ấy vậy mà chỉ hai bàn tay trắng trơn dần dần trở thành một trong những tù chính trị “giàu sụ” nhờ “bán hàng lậu” trong trại và ngoài trại. “Hàng lậu” thoạt nghe tưởng như ghê gớm lắm nhưng thật ra chỉ là những món lặt vặt như nắm rau, con cá, hộp sữa, trái chuối, củ khoai, … mua bên ngoài mang “chui” vào trại bán, mua áo quần từ bên trong mang “chui” ra ngoài bán. Nét đặc biệt của chú bạn trẻ này là khách hàng của chú, chẳng những là bạn tù trong trại, mà khách hàng còn là dân bên ngoài trại, và cả Công An cũng là khách hàng của chú nữa. Ngay đám nữ Công An bán hàng cho chú Tiếng đủ thứ hết, ngược lại thì mua áo quần lẫn những thứ hàng thường dùng do trong Nam sản xuất hoặc hàng ngoại quốc, như xà bông thơm, viên thuốc tây, kem đánh răng, răng vàng, nhẫn vàng, nói chung là thượng vàng hạ cám trong trại tù có đủ hết. Cái hoạt cảnh vui nhộn hơn hết là lúc Nguyễn Kim Tiếng, cầm cây kềm cạy cái răng vàng còn trong miệng một bạn cần bán để có tiền mua thuốc lào. Phải công nhận Nguyễn Kim Tiếng vóc dáng không có gì hấp dẫn, nước da ngâm đen, nhưng nói chuyện kèm theo nụ cười rất có duyên.

Tấm ảnh đầu tiên.

Tết năm 1984 này có sự kiện được xem là đặc biệt. Đó là tên trại trưởng trại Nam Hà A -Đại Úy Lới- cho phép gia đình anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) ở lại một tuần kể từ 27 Tết, để nuôi anh Tân trong tình trạng bại liệt do tai biến mạch máu não. Gia đình anh Tân gồm vợ và con gái tên Phương Nga. Nhà trực trại dành một phòng trống nhỏ xíu để anh Tân được bạn khiêng từ trong trại ra nằm, vợ và con anh Tân từ nhà thăm nuôi vào đó chăm sóc anh. Hết giờ làm việc chiều, vợ con anh Tân trở ra nhà thăm nuôi, trong khi anh Tân được các anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), Nguyễn Văn May (Đại Tá Hải Quân), và anh Phan Văn Phương (Thiếu Tá Hải Quân) khiêng vào trạm xá. Chị Tân và cháu Phương Nga có trường dạy “nữ công gia chánh” cùng tên Phương Nga ở góc đường Phạm Ngũ Lão, gần chợ Thái Bình, Sài Gòn. Chị Tân có mang theo nguyên liệu và dụng cụ làm bánh, kể cả mua than từ Hà Nội. Nhờ vậy mà mỗi đêm, chị Tân với “con gái rượu” của chị làm và nướng bánh, để sáng mang vào nhà trực trại hoàn chỉnh phần “bắt bông kem” để tặng Ban Giám Thị với trực trại gọi là “có đi có lại cho toại lòng nhau”. Chị cũng tặng cho anh em chúng tôi gần phần nửa trong số bánh mà chị với con gái của chị làm. Đều đều như vậy trong một tuần lễ chị được phép chăm sóc chồng.
Vừa nói tôi vừa chỉ tấm vách có chiều cao lưng chừng:
“Dạ. Con cám ơn bác, con sẽ cẩn thận. Bác bước ra sát vách, con chụp lén cho bác một tấm ảnh đem về đưa cho bác gái”.
Mời cô đi ra”.
Trồng khoai mì xong, chúng tôi phải trồng 1.200 hốc bí rợ mà họ gọi là bí đỏ, sau bí rợ là trồng bí đao mà họ gọi là bí xanh. Bí rợ trồng theo hốc cho bò lên những tảng đá, bí đao trồng theo luống và làm giàn hình chữ A, cao 8 tấc (0.8 thước), để hai hàng giây bí leo lên. Vì thung lũng này toàn đá tảng, cho nên có những giàn bí chỉ có năm bảy giây mỗi bên thôi.

Tổ Văn Hoá.

“Anh có điều gì không rõ phải hỏi anh Nam để được hướng dẫn”.
Tôi đang muốn ra sân vì trận banh gọi là tiễn anh Dương Huy Nam đang ồn ào ngoài sân trại. Sở dĩ có trận banh giao hữu giữa Đội banh tù chính trị chúng tôi với Đội banh Công An cai tù để tiễn anh Nam, vì phong trào đá banh bắt đầu từ anh Nam nối vào anh Phước về tổ chức, và tôi phụ trách cung cấp banh do vợ tôi cho kể cả xin của các chị bạn. Cuối cùng tôi cũng vào đá hiệp hai. Đội tù chúng tôi thắng Đội Công An cai tù 4-2.

Trại trưởng mới, tù dễ thở.

Thấy đám trực trại cũng như đám quản giáo buồng giam giảm bớt mức độ khắc khe, từng bước, các anh trực buồng giam xới khoảnh đất bé xíu phía sau buồng để trồng vài luống rau có thêm chất dinh dưỡng. Dần dần những bầu những mướp đậu rồng đậu đủa che kín bờ tường, bên dưới thì hành ngò cải xanh cải bắp ớt cà xanh tươi. Không thấy phản ứng của họ, nhóm chúng tôi trong tổ văn hoá cũng xới khoảnh đất phía sau hội trường trồng rau trồng đậu. Nhìn vào chẳng bao nhiêu, nhưng thật sự những hoa màu ít ỏi đó cũng góp phần đáng kể cho bữa ăn của chúng tôi, nhất là các anh bị bệnh khó trị.

Những màn kịch cởm.

Sau đoạn phim về trận banh tạp nham với hai tổ dịch thuật và văn nghệ, đến đoạn phim tù chính trị ăn cơm chiều với “thực đơn” đặc biệt. Đám trực trại cho dọn cái gọi là nhà ăn của buồng giam số 1, để ở đó một cái bàn với sáu ghế ngồi. Cả mấy trăm tù chính trị mà chỉ có một bàn ăn duy nhất, làm sao che giấu cái bản chất dối trá trước phái đoàn truyền thông quốc tế? Vậy mà họ vẫn cứ thực hiện. Sáu anh tù chính trị được chỉ định ngồi vào bàn ăn “kịch cởm” này, họ bắt phải mặc áo quần mà họ nói là đẹp nhất. Tôi với cụ Hoàng Văn Úy đến từng anh thuyết phục nên mặc đồ thường thôi, vì hy vọng đoàn quay phim này sẽ có tác dụng thuận lợi cho mình khi họ phổ biến trên hệ thống truyền thông thế giới. Các bạn đồng ý, nhưng cũng cố gắng một chút tươm tất, nếu không sẽ không yên với đám an ninh của trại.
Tôi và anh Đặng Hoàng Long đứng nhìn nhóm Thụy Điển thu hình. Anh chàng chuyên viên chỉ đưa ống kính quét một lượt phần trên bàn, rồi anh ta ngồi bệt trên sàn xi-măng, đưa ống kính vào các ống chân bàn chân của “thực khách” và thu thật chậm nên không sót bàn chân anh nào cả. Đó là những bàn chân nứt nẻ bị bùn đen bám vào, cộng với nước phèn ngấm vào da, làm cho những bàn chân trở nên sàm sở, và người quay phim khai thác một cách rất nghệ thuật về những chứng tích không thể chối cải trong trại tập trung của cộng sản Việt Nam.  
Cảnh 1 là anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ và là thông dịch viên Anh ngữ) cùng với một bạn nữa (dường như là anh Bửu Uy) đang đánh cờ tướng.
Cảnh 2 là anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo) có hàm râu dài trắng phếu, đang ngồi vá chiếc áo mùa đông, trông thật là buồn!
Và cảnh 3 là anh Phạm Văn Thuần (Đại Tá, Phủ Thủ Tướng) dưới ánh đèn leo lét đang cắm cúi viết “thư tình già” gởi về cho “má bầy trẻ”. Cái gọi là bàn viết của anh Thuần chỉ là cái mền chồng lên cái gối do mấy bộ quần áo tù cuộn lại. (Mấy tháng sau đó, con gái của anh Vị từ Paris gởi về anh Vị tấm ảnh “anh ngồi vá áo” do chụp lại từ trong tivi mà cuộn phim đó trình chiếu trên hệ thống tivi nước Pháp).
Về đoạn phim mà tên Niệm gọi là “phóng sự”, thật ra anh em tù chính trị chúng tôi không ai biết về cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Cần Thơ tại trại Nam Hà A này cả. Chỉ biết là họ có thu hình anh Vũ Tiến Phúc và anh Lâm Chánh Ngôn (Đại Tá, Sư Đoàn 21 Bộ Binh). Hôm đó là buổi chiều, họ thu hình hai anh đứng cuốc đất trên khoảng đất nhỏ xíu ngay góc cái giếng lớn cạnh cổng chánh của trại. Khoảng đất “đầu thừa đuôi thẹo” chút xíu xìu xiu này chưa bao giờ trồng trọt gì cả. Còn phỏng vấn lúc nào và ở đâu, chúng tôi hoàn toàn không biết.
Nếu cho rằng đài truyền hình Cần Thơ muốn phỏng vấn những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng phục vụ vùng đồng bằng Cửu Long mà đài truyền hình này xem là địa phương, thì đâu phải chỉ có anh Phúc với anh Ngôn, mà có các anh Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn May, Huỳnh Thanh Sơn, và nhiều nữa. Phải chăng đó chỉ là cách nói của trại như là lý do ra về của anh Phúc do ông Bộ Trưởng Bộ Công An “tử tế và rộng lượng quá”, chỉ cần lúc nhàn hạ ngồi xem một đoạn phim là đủ yếu tố để quyết định thả tù, loại tù mà ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố là không thể tha thứ.     
Đó là lời của cụ Hoàng Văn Úy nói theo kiểu vuốt đuôi tên Lực, nhưng trong lòng anh em chúng tôi thầm cười “cái đểu rất đểu với bọn cộng sản quá đểu”. Thế là những màn kịch tồi đã bị nhóm thu hình Thụy Điển vạch trần một cách nghệ thuật. Xin cám ơn các bạn Thụy Điển trong nhóm quay phim ấy.       

Lại một cái Tết trong tù.

Ngoài các anh kể trên, còn có các anh Lâm Minh Sơn (Thiếu Tá) có  biệt danh “Sơn gà  tre” vì  khi đá banh anh chạy nhanh lắm, Lê Thành Kỉnh (Tuyên Úy Phật Giáo), Chu Mạnh Bích (Đại Úy, lái phi cơ C130), Nguyễn Minh Chí (một trong những bạn rất trẻ), anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), anh Vĩnh Thái (Trung Tá Nhẩy Dù), ..v..v...
Đâu đã hết, còn có các anh thuộc hàng “thợ ca” như anh Nguyễn Khoa Phước (Nghị Sĩ), anh Vĩnh Biểu (Đại Tá), anh Phạm Kim Tấn, Nguyễn Hữu Vị, anh Đinh Tiến Dũng, anh Nguyễn Dũng, anh Nguyễn Văn Năm (Đại Úy, lái khu trục phản lực), Trương Đình Thăng, Triệu Huỳnh Võ (anh Thăng với anh Võ là Đốc sự hành chánh). Trong số này có hai “thợ đàn với thợ ca”  thuộc hạng siêu là anh Nguyễn Văn Năm với anh Nguyễn Dũng. Hai bạn này cạnh nhau, sau khi nằm yên trong mùng thì anh Năm đàn anh Dũng ca. Tiếng đàn với tiếng ca thật nhỏ. Nói nghe có vẻ quá lời, thật ra hai anh có thể đàn hát tới sáng cũng chưa hết bài hát thuộc lòng nữa quí vị quí bạn à!
Tối Mồng Một Tết trong buồng giam số 1, chúng tôi quân quần bên nhau trên sàn gác, uống trà uống cà phê đàn ca hát xướng. Chỉ cần một tiếng đồng hồ, anh Đặng Hoàng Long vẽ xong chân dung tôi (bên cạnh), và vẽ một hoạt cảnh bằng bút chì. Ôi thôi, “ca nhạc sĩ” đủ kiểu ngồi nằm vừa đàn vừa hát, áo quần ngổn ngang trên những giây giăng mùng, những túi những lon móc đầy trên vách, đằng sau “ban nhạc” là anh Nguyễn Văn Sảo (Đại Tá An Ninh Quân Đội) “thưởng thức văn nghệ bỏ túi” trong thế ngồi bó gối, có vẻ như anh đang buồn ngủ? Cứ sau khi đám trực trại khóa cửa buồng giam, chúng tôi tự cho  mình  được tự do  ca hát, mà hát  toàn những  bài liên quan đến đời sống chiến đấu lẫn đời sống tình cảm thời chiến tranh giữ nước. Hát nhạc ngoại quốc, phải công nhận anh Lê Minh Đảo (Thiếu Tướng), anh Phạm Kim Tấn, anh Bửu Uy, anh Vĩnh Biểu, anh Phạm Gia Đại, anh Chu Mạnh Bích, thuộc nhiều mà hát hay nữa. Trong chốn riêng tư của con người, đêm đêm cái đám Công An vào đứng hay ngồi bên ngoài cửa sổ các buồng giam để nghe đàn hát. Những khi không nghe đàn hát, chúng nó yêu cầu chúng tôi hát những bài hát mà chúng nó muốn nghe cứ như “chương trình nhạc yêu cầu” vậy.
Ngày Mồng Hai Tết, anh Lại Đức Chuẩn, tổ trưởng tổ dịch thuật bên buồng giam số 2, tổ chức văn nghệ có ăn trưa hẳn hòi. Từ 9 giờ sáng đến 1 giờ trưa ngưng lại ăn cơm. Ăn xong tiếp tục phần hai, nhưng có lẽ “mở heo” (từ thịt kho) bám vào thanh quản nhiều quá nên “các ca sĩ”  xuống phong độ và chấm dứt sớm.  

Đổi tiền lần thứ ba.

Về trường hợp tên Vũ Quấc ra rìa và bắt buộc phải về hưu, làm cho hắn xem những đồng chí áo vàng (đồng phục của Công An) của hắn là thù địch. Chuyện là mấy tháng trước, hắn xin đi áp tải tù chính trị duy nhất vào Nam, đó là anh Ung Ngọc Nghĩa, trước kia là đảng viên chính trị. Anh Nghĩa là em ruột của Ung Ngọc Ky, tên cộng sản tập kết ra Bắc năm 1954. Trong khi Vũ Quấc vào Nam, cái đám chi bộ đảng của hắn tại trại Nam Hà A này, đưa tên hắn vào danh sách đề nghị cưỡng bách về hưu. Vũ Quấc là tên Công An vừa tham vừa thâm lại vừa độc, ngay cả với những “đồng chí” của hắn nếu như họ không đứng trong phe cánh với hắn. Theo tên Dục nói lại thì trong một tháng ở Sài Gòn, Vũ Quấc được anh Dương Huy Nam hướng dẫn đến một số các anh tù chính trị về trước để xin tiền. Trở về trại là hắn tối tăm mặt mũi, khi biết bị đám đồng chí của hắn chơi một đòn quá nặng.
Điển hình cái tham cái độc của Vũ Quấc. Tháng 01/1985, khi anh Liêm (Thiếu Tá) Đội trưởng đội thợ mộc được ra trại, hắn bảo anh Liêm ăn cắp dụng cụ đồ nghề của thợ mộc gồm cưa, bào, đục, giũa, búa, khoan, đem về buồng giam, rồi lúc thuận tiện sẽ có tù hình sự đến lấy đem ra phòng hắn bên ngoài cổng trại. Đến chú Vượng có thời gian giữ kho dụng cụ, trước khi được ra trại, hắn bảo ăn cắp mai xén đất, cuốc bàn, cuốc chim, xà beng, búa tạ, dao lớn dao nhỏ dao dài dao ngắn, bao bọc lại rồi lén mang đến phòng hắn vào buổi trưa. Đâu đã hết tham, hắn xuống buồng giam số 18 thấy mấy tấm “lưới chống B40”, hắn bảo mấy anh tù hình sự tháo ra rồi gập lại cho ngắn gọn, bỏ vào giỏ rác, buổi trưa khiêng ra cổng đổ vào đống rác. Hắn lại bảo anh hình sự phục vụ khu doanh trại, chờ giờ nghỉ trưa lén mang đến phòng hắn, để hắn mang về nhà đúc cái sân thượng nho nhỏ. Nhưng cái số của hắn đã mạt càng thêm mạt, vì cuộn lưới cuối cùng trên đường đến phòng hắn thì tên Công An gác cổng kêu dừng lại xét, và bắt tại trận. Không biết hắn có bị gì không, nhưng anh hình sự bị đuổi về Đội đi lao động, không được phục vụ ngoài khu doanh trại nữa. Cái khác biệt giữa theo đội đi lao động với phục vụ khu doanh trại bên ngoài, tuy cùng là lao động nhưng lao động khu doanh trại tự do hơn, vì chỉ có một mình nên sự đi lại dễ dàng, nhưng ngược lại khi tên Công an nào bảo gì thì làm nấy.

Trại trưởng mới, tù nghẹt thở.

“Tù áo hoa tức là như mấy anh đây phải không?”
“Phải”.
Trả lời xong là cả đám cháu ngoan của ông Hồ vừa cười vừa chạy, cứ như chúng nó bằng lòng với lời bày tỏ ước vọng tương lai của chúng nó vậy.
Tôi trả lời cộc lốc mà không dùng chữ báo cáo cán bộ.

Ánh sáng cuối đường hầm.

Ông cười cười với giọng nửa đùa nửa thiệt:
Rồi ông trở nên nghiêm chỉnh:
“Còn. Anh ấy vẫn còn trong trại”.
Đầu tháng 05/1987, vợ tôi từ Sài Gòn ra thăm mang theo đồn đoán liên quan đến tin tức làm xôn xao anh em tù chính trị chúng tôi. Thêm nữa, tin tức không chỉ đồn đoán tại Sài Gòn, mà thư các con tôi từ Hoa Kỳ cho biết, trong Cộng Đồng Việt Nam bên đó cũng có dư luận về tin tức này và tin tưởng sẽ là sự thật. Ngoài tin tức sốt dẻo nói trên, lại có tin không vui của vợ tôi. Đó là sự kiện hồi tuần trước, trong khi vợ tôi lên xe lửa tại Sài Gòn bị đám lưu manh giựt cái túi xách tay mà trong đó có một số tiền đáng kể, gồm của vợ tôi và của các chị bạn gởi ra để các anh có tiền về đường, và cái túi quần áo cũng bị giựt. Nói chung là cả áo quần lẫn tiền bạc đều mất hết. Sau khi khai báo với Công An, vợ tôi quay về gom góp trong nhà và mượn của đứa em trai để trả lại các chị và mua sắm ít đồ dùng. Dù bị mất mát khá nhiều, nhưng vợ tôi vẫn cố gắng ra thăm tôi để nói với tôi về việc anh em tù chính trị chúng tôi rất có hy vọng  được ra về. 

No comments: